KINH TỤNG HẰNG NGÀY

LỜI DẪN

Đức Phật  là đức Thế Tôn, là bậc Toàn giác, bậc Tri Giả, Kiến Giả, là bậc khai đạo, bậc thuyết đạo, bậc dẫn đạo cho tất cả chúng sinh. Trong 45 năm thuyết pháp độ sanh, đức Phật đã vô lượng Pháp màu. Kinh Tạng Pali kết tập khoảng 8,000 bài kinh. Kinh hệ A Hàm và hệ Phát Triển, từ đó cũng phát triển thêm hàng ngàn bài kinh khác. Hầu hết kinh điển này còn được lưu giữ trong các Đại Tạng Kinh, tuy nhiên, chỉ có số rất ít được phổ biến cho việc tụng đọc tu học, còn phần lớn, chỉ có những nhà nghiên cứu chuyên môn mới đi vào tìm hiểu.

Đối với người tu học theo hệ Bắc Truyền ở Việt Nam, nhìn chung, các Kinh Nhật Tụng đã được biên soạn dành cho đọc tụng tu tập trong các chùa, các tu viện, các đạo tràng, thường chỉ xoay quanh hai thời khóa tụng. Từ lâu, mọi người có quan niệm rằng sáng Lăng Nghiêm, chiều Di Đà, giữa tháng có Sám Hối Hồng Danh, như vậy được gọi là công phu tu tập. Ngoài ra, rộng hơn nữa thì có khoảng trên dưới chục quyển kinh khác như: Pháp Hoa, Địa Tạng, Dược Sư, Vô Lượng Thọ,… cùng với một số Sám nguyện và Sám văn, như Thủy Sám, Lương Hoàng Sám… để tụng niệm và cầu nguyện.

“Tụng kinh giả, minh Phật chi lý” – Ý nghĩa chân chính của việc tụng kinh là nhằm để thấu hiểu lời Phật dạy, để thực hành đưa đến giác ngộ, giải thoát khổ đau. Tuy nhiên, số lượng kinh điển nêu trên, phần lớn nội dung đều nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, và không đủ để một người tu học có thể hiểu một đạo Phật toàn diện. Đã vậy, mà một số người lại chủ trương chỉ chuyên tụng một quyển kinh trong số nói trên, như vậy khả năng để thấu hiểu Phật Pháp một cách đầy đủ là rất khó.

Tại sao trong các thời khóa tu học, chúng ta phải đọc đi đọc lại chỉ vài bài kinh như vậy? Vấn đề được đặt ra là: Trì tụng một bài kinh, hay tụng đọc nhiều bài kinh, điều nào tốt hơn? Về vấn đề này, trong rất nhiều bài kinh, đức Phật đã dạy rất rõ ràng rằng, chỉ vì thiếu nghe pháp, thiếu nhận thức, không thuần thục pháp, nên kẻ phàm phu rơi vào chấp thủ, phát sinh nhiều tưởng tri sai lầm; và vì không biết rõ chánh pháp và không biết rõ phi pháp, nên kẻ phàm phu phục vụ sai lầm và tu tập sai lầm, kết quả đưa đến đọa lạc. Đức Phật cũng thường tán thán những hàng đa văn Thánh đệ tử, những vị này chính do nhờ nghe nhiều bài pháp, thấm nhuần, thuần thục pháp, nhận thức đúng đắn và đầy đủ chánh pháp nên việc tu tập đạt được mục đích an lạc giải thoát chân chánh. Như vậy, việc đọc tụng nhiều kinh (đa văn) là điều thích hợp với lời dạy của đức Phật và cần được khuyến khích rộng rãi. Bởi lẽ, đây luôn là thắng duyên trên bước đường tu học, và việc này hoàn toàn có lợi ích lớn, có công đức lớn.

Con đường của đạo Phật là con đường giáo dục. Đạo Phật giáo dục con người từ phàm phu trở thành thánh nhân, từ mê muội trở thành giác ngộ với ba lĩnh vực: Giới, Định, Tuệ trong Bát Thánh Đạo. Giới học là lĩnh vực giáo dục về thân và lời nói, với 3 nội dung: Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng nhằm giáo dục hành vi, lời nói đúng đắn, có nhân cách, đạo đức, phẩm hạnh tốt. Định học là lĩnh vực giáo dục về tâm, với 3 nội dung: Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định để thành tựu tâm an trú, tĩnh lặng, quảng đại, cao thượng, …. Tuệ học là lĩnh vực giáo dục về nhận thức cả thân, khẩu và tâm ý, với 2 nội dung: Chánh kiến và Chánh tư duy để nhận thức chân lý đưa đến chấm dứt vô minh, đạt đến giải thoát an lạc.

Cả ba phương diện giáo dục Giới-Định-Tuệ cần phải tuệ tri một cách thấu triệt để hành trì hiệu quả. Một người không tuệ tri về Giới, vị ấy khó mà giữ giới được thành tựu. Nếu không có tuệ tri Giới, vị ấy chỉ có thể giữ giới một cách thụ động, hời hợt bề ngoài và miễn cưỡng mà không có niềm tin sâu sắc. Nhưng nếu có tuệ tri Giới, tuệ tri đây là con đường chắc chắn của thiện pháp, vị ấy sẽ tinh tấn giữ giới với lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu Pháp này. Do vậy, Giới cần được giáo dục liên tục, giúp cho người nhận Giới tuệ tri đầy đủ lợi ích mới có thể hành trì hiệu quả. Tương tự, đối với Định và Tuệ cũng vậy. Tất cả những điều này đều được đức Phật dạy đầy đủ trong kinh. Thế nhưng, nếu đệ tử Phật không đọc kinh, hoặc chỉ đọc kinh quá ít, thì con đường giáo dục cao thượng này khó mà liễu ngộ và thành tựu đầy đủ.

Vì lợi ích, vì an lạc và hạnh phúc cho số đông, nhận thấy việc hoằng Pháp là việc trọng đại, và nhận thấy Phật Pháp chỉ khi có được số đông tiếp nhận và thông hiểu thì mục đích đó mới được thành tựu. Trong lịch sử Phật giáo, những thời đại nào, những nơi nào, đệ tử Phật mù giáo lý hay không thông hiểu Phật Pháp, thời đại đó, nơi đó khởi lên nhiều tà kiến, tà tinh tấn, tà thuyết, và kết quả là Phật Pháp ở đó bị suy tàn.

Có tư tưởng cho rằng thời đại ngày nay là thời mạt Pháp, vậy nên đọc nhiều kinh là “tạp tu”, tạp tu là không tốt, không cần thiết, họ kêu gọi từ bỏ tất cả Thánh giáo kinh điển, hoặc chỉ chuyên đọc tụng một bài kinh mà thôi. Họ gọi đó là chuyên tu. Ở đây, chúng tôi lại mong muốn mọi người đọc nhiều kinh hơn, lời Phật dạy được phổ biến rộng rãi hơn. Bởi lẽ người đệ tử Phật, càng đọc nhiều kinh, càng có cơ hội thâm nhập Phật Pháp, và tu hành cũng chuẩn mực, thuận lợi và dễ dàng hơn, tránh rơi vào phiến diện và cực đoan. Cũng như bất cứ việc gì, dù là việc nhỏ hay việc lớn, nếu thông hiểu việc rồi thì dù việc khó khăn cũng làm được. Lại cũng như người đi đường, nếu biết đường rõ ràng, nắm vững bản đồ, thì có thể đi đến đích, hơn là người không biết đường, hoặc chỉ biết mơ hồ, biết rất ít, hoặc biết không rõ ràng. Chúng ta cũng nên ý thức rằng, mạt pháp chỉ có thể xảy ra khi mà tất cả đệ tử Phật đều từ bỏ Kinh Phật; ngược lại, mạt pháp sẽ không thể xảy ra khi mà số đông đệ tử Phật vẫn còn tinh tấn đọc tụng, hiểu biết thấu đáo và thực hành lời Phật dạy. Đức Phật đã nói rõ trong Kinh Đại Bát Niết Bàn (Trường Bộ) rằng bất cứ ở đâu, khi nào, trong giáo pháp nào không có Bát Thánh Đạo, thì nơi đó, thời đó, giáo pháp ấy không có Thánh quả; nhưng trong giáo Pháp nào có Bát Thánh Đạo, thời ở đây có Thánh quả. Đức Phật khẳng định: Trong giáo Pháp nào có thực hành Bát Thánh Đạo thì ở đây không thiếu vắng những vị thành tựu đạo quả A La Hán giải thoát cao thượng.

Đạo Phật đã trải qua một chặng đường 2600 năm lịch sử với biết bao biến cố thăng trầm, dù vậy, giáo pháp Bát Thánh Đạo vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Bát Thánh Đạo đang còn hiện hữu, nghĩa là Chánh Pháp Luân vẫn đang vận chuyển trên thế gian này. Do vậy, không có lí do gì để nói rằng thời nay là thời mạt Pháp.

Để đáp ứng nhu cầu tu học ngày một gia tăng và rộng rãi, giúp người tu học mỗi lần tụng kinh là một lần vừa được học giáo lí, vừa mở rộng nhận thức, tiếp cận nhiều hơn những bài kinh với những lời dạy cao quý vô giá của đức Phật, khiến cho Pháp Luân thường chuyển, tác giả biên soạn, tuyển tập những bài kinh tinh túy tiêu biểu được rút từ Đại Tạng Kinh, tập thành Pháp Bảo để những ai có duyên sẽ tiếp nhận, tụng đọc và làm kim chỉ nam tu tập hằng ngày.

“Thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như biển.” Lợi lạc biết bao, một người đệ tử Phật hiểu đúng, hiểu sâu lời Phật dạy! Vị ấy chắc chắn dễ dàng tu tập đúng đắn, đem đến an vui, lợi lạc cho bản thân, và vị ấy cũng sẽ thúc đẩy khuyến khích tha nhân nỗ lực tu học để đạt được thành tựu ấy. Như thế vị ấy chính là người thực hiện pháp môn “Vô tận đăng” làm cho ánh sáng Phật Pháp lưu truyền vô tận, lợi lạc rộng khắp.

Nguyện cầu Tam Bảo trường tồn mãi ở thế gian, tất cả chúng sanh đều thấm nhuần Chánh Pháp.

Philadelphia, April 1, 2017.

Thích Thiện Thái, kính đề.

MỤC LỤC

Tên Kinh Trang
Phần Khai Kinh 13
Kinh Pháp Môn Căn Bản 20
Kinh Tất Cả Các Lậu Hoặc 35
Kinh Chánh Tri Kiến 53
Kinh Niệm Xứ 83
Kinh Thánh Cầu 113
Kinh Kālāmā 160
Đại Kinh Thí Dụ Lõi Cây 179
Đại Kinh Phương Quảng 194
Đại Kinh Pháp Hành 215
Kinh Vương Tử Vô Úy 235
Kinh Ratthapala 248
Kinh Thân Hành Niệm 294
Tiểu Kinh Nghiệp Phân Biệt 325
Đại Kinh Nghiệp Phân Biệt 344
Kinh Giới Phân Biệt 367
Kinh Phân Biệt Về Sự Thật 394
Kinh Giáo Giới Cấp Cô Độc 405
Tiểu Kinh Giáo Giới La Hầu La 422
Đại Kinh Giáo Giới La Hầu La 428
Kinh Sáu Sáu 444
Đại Kinh Sáu Xứ 464
Kinh Ví Dụ Con Rắn 473
Kinh Bāhiya Dāruciriya 515
Kinh Kim Cang 524
Kinh A Di Đà 568
Kinh Di Giáo 582
Phần Hồi Hướng 603

KINH TỤNG HẰNG NGÀY

PHẦN KHAI KINH

NGUYỆN HƯƠNG

Giới hương công đức thanh lương

Định hương thiền tịnh tâm thường chuyên tu

Tuệ hương quán chiếu công phu

Giải thoát hương đạo nhiệm mầu chánh chân

Giải thoát tri kiến vô sanh

Năm phần hương nguyện kính dâng cúng dường

Oai linh Tam Bảo mười phương

Đức lành vô thượng chơn thường Thánh ân.

Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát.

LỄ PHẬT BẢO

Cội bồ đề trang nghiêm thiền tịnh

Thắng thiên ma vạn chướng trùng trùng

Con xin lạy đấng Ðại Hùng

Rọi vô biên trí tận cùng thế gian.

Từ quá khứ vô vàn Phật hiện

Ở tương lai vô lượng Phật thành

Hiện tiền chư Phật độ sanh

Con xin kính lễ tâm minh nguyện cầu.

Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng

Chánh Biến Tri, Minh Hạnh đủ đầy

Ðức ân Thiện Thệ cao dày

Bậc Thế Gian Giải chỉ bày lý chân.

Vô Thượng Sĩ pháp âm tịnh diệu

Bậc Trượng Phu Ðiều Ngự độ sanh

Thiên Nhân Sư đấng Cha Lành

Phật Ðà toàn giác Thế Tôn trong đời.

Phật là nơi nương nhờ tối thượng

Cho chúng con vô lượng an lành

Qui y Phật Bảo từ ân

Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên.
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối

Những sở hành lầm lỗi vô minh

Từ thân khẩu ý khởi sanh

Ngưỡng mong Phật Bảo đức lành từ dung. (lạy)

LỄ PHÁP BẢO

Bát Thánh Đạo con đường Chánh Giác

Ðưa chúng sanh vượt thoát trầm luân

Chân truyền diệu pháp Thánh nhân

Con xin tịnh ý nghiêm thân thực hành.

Từ quá khứ vô vàn Diệu Pháp

Ở tương lai vô lượng Pháp mầu

Hiện tiền Phật Pháp thâm sâu

Thuyền từ phương tiện bắc cầu độ sanh.

Pháp vi diệu Cha Lành khéo dạy

Lìa danh ngôn giác ngộ hiện tiền

Vượt thời gian chứng vô biên

Sát na đại ngộ hoát nhiên liễu tường.

Ðạo vô thượng đến rồi thấy rõ

Hướng thượng tâm thoát ngõ vọng trần

Trí nhân tự ngộ giả chân

Diệu thường tịnh lạc Pháp ân nhiệm mầu.

Pháp là nơi nương nhờ tối thượng

Cho chúng con vô lượng an lành

Qui y Pháp Bảo chánh chân

Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên.

Gieo năm vóc trọn niềm sám hối

Những sở hành lầm lỗi vô minh

Từ thân khẩu ý khởi sanh

Ngưỡng mong Pháp Bảo đức lành từ dung. (lạy)

LỄ TĂNG BẢO

Hoà hợp chúng Tăng-già thanh tịnh

Ðức vô song tứ thánh sa môn

Thừa hành di giáo Thế Tôn

Ðời đời tương tục bốn phương phổ hoằng.

Từ quá khứ vô vàn Tăng chúng

Ở tương lai vô lượng Thánh hiền

Hiện tiền Tăng Bảo phước điền

Con xin kính lễ gieo duyên Niết bàn.

Bậc diệu hạnh Thinh văn Thích tử

Bậc trực hạnh pháp lữ thiền gia

Bậc như lý hạnh Tăng-già

Bậc chơn chánh hạnh dưới toà Thế Tôn.

Thành đạo quả bốn đôi tám chúng

Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm

Cung nghinh kính lễ một niềm

Thánh chúng vô thượng phước điền thế gian.

Tăng là nơi nương nhờ tối thượng

Cho chúng con vô lượng an lành

Qui y Tăng Bảo tịnh thanh

Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên.

Gieo năm vóc trọn niềm sám hối

Những sở hành lầm lỗi vô minh

Từ thân khẩu ý khởi sanh

Ngưỡng mong Tăng Bảo đức lành từ dung. (lạy)

THỈNH CHƯ THIÊN

Ðạo tràng thanh tịnh bồ đề

Mười phương Thiên chúng hội về nghe kinh

Pháp mầu diệt tận vô minh

Pháp mầu cứu khổ sinh linh vạn loài.

Từ Dục giới vân đài sáu cõi

Ðến thiên cung Sắc giới hữu tình

Duyên xưa đã tạo nghiệp lành

Kết thành phúc quả thiện sanh đến giờ.

Ngự khắp chốn bến bờ đồng ruộng

Hoặc hư không châu quận thị phường

Non xanh rừng rậm đất bằng

Hoặc nơi quán cảnh xóm làng gần xa.

Xin đồng thỉnh Dạ-xoa chư chúng

Càn-thát-bà, Long chủng nơi nơi

Miếu đền thành quách lâu đời

Sông hồ hoang đảo biển khơi trùng trùng.

Pháp vi diệu nghìn thân nan ngộ

Phước nhân thiên muôn thuở khó cầu

Ngày tàn tháng lụn qua mau

Ðắm say trần cảnh vùi đầu tử sinh.

Ðây là giờ chuyển kinh vô thượng

Ðây là giờ đọc tụng pháp âm

Lời vàng lý nghĩa cao thâm

Xin chư hiền giả lắng tâm thọ trì. (lạy)

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

KHAI KINH KỆ

Phật pháp cao siêu lý rộng sâu

Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu.

Con nay gặp được vâng trì tụng

Nguyện hiểu chân kinh nghĩa nhiệm mầu.

KINH PHÁP MÔN CĂN BẢN

(Mūlapariyāya sutta. MN. 1)

Việt dịch: HT. Thích Minh Châu

Như vậy ta nghe.

Một thời Thế Tôn trú tại tụ lạc Ukkattha, trong rừng Subhaga, dưới gốc cây Sa-la vương. Tại chỗ ấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: Này các Tỷ-kheo! Bạch Thế Tôn. Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các ngươi “Pháp môn căn bản tất cả pháp”. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn, những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

(PHÀM PHU)

Thế Tôn nói như sau:

Này các Tỷ-kheo, ở đây, có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân, tưởng tri địa đại là địa đại. Vì tưởng tri địa đại là địa đại, người ấy nghĩ đến địa đại, nghĩ đến tự ngã đối chiếu với địa đại, nghĩ đến tự ngã như là địa đại. Người ấy nghĩ: “Ðịa đại là của ta”, dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri địa đại.

Người ấy tưởng tri thủy đại là thủy đại. Vì tưởng tri thủy đại là thủy đại, người ấy nghĩ đến thủy đại, nghĩ đến tự ngã đối chiếu với thủy đại, nghĩ đến tự ngã như là thủy đại. Người ấy nghĩ: “Thủy đại là của ta”, dục hỷ thủy đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri thủy đại.

Người ấy tưởng tri hỏa đại là hỏa đại. Vì tưởng tri hỏa đại là hỏa đại, người ấy nghĩ đến hỏa đại, nghĩ đến tự ngã đối chiếu với hỏa đại, nghĩ đến tự ngã như là hỏa đại. Người ấy nghĩ: “Hỏa đại là của ta”,  dục hỷ hỏa đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri hỏa đại.

Người ấy tưởng tri phong đại là phong đại. Vì tưởng tri phong đại là phong đại, người ấy nghĩ đến phong đại, nghĩ đến tự ngã đối chiếu với phong đại, nghĩ đến tự ngã như là phong đại. Người ấy nghĩ: “Phong đại là của ta”, dục hỷ phong đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri phong đại.

Người ấy tưởng tri Sanh vật là Sanh vật… Người ấy tưởng tri chư Thiên là chư Thiên… Người ấy tưởng tri Sanh chủ là Sanh chủ… Người ấy tưởng tri Phạm thiên là Phạm thiên… Người ấy tưởng tri Quang Âm thiên là Quang Âm thiên… Người ấy tưởng tri Biến Tịnh thiên là Biến Tịnh thiên… Người ấy tưởng tri Quảng Quả thiên là Quảng Quả thiên… Người ấy tưởng tri Abhibhù (Thắng giả) là Abhibhù…

Người ấy tưởng tri Không vô biên xứ là Không vô biên xứ… Người ấy tưởng tri Thức vô biên xứ là Thức vô biên xứ… Người ấy tưởng tri Vô sở hữu xứ là Vô sở hữu xứ… Người ấy tưởng tri Phi tưởng phi phi tưởng xứ là Phi tưởng phi phi tưởng xứ… Người ấy tưởng tri sở kiến là sở kiến… Người ấy tưởng tri sở văn là sở văn… Người ấy tưởng tri sở tư niệm là sở tư niệm… Người ấy tưởng tri sở tri là sở tri… Người ấy tưởng tri đồng nhất là đồng nhất… Người ấy tưởng tri sai biệt là sai biệt… Người ấy tưởng tri tất cả là tất cả…

Người ấy tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn, người ấy nghĩ đến Niết-bàn, nghĩ đến tự ngã đối chiếu với Niết-bàn, nghĩ đến tự ngã như là Niết-bàn. Người ấy nghĩ: “Niết-bàn là của ta”, dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri Niết-bàn.

(BẬC HỮU HỌC)

Này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo hữu học, tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu vô thượng an ổn khỏi khổ ách. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến tự ngã đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến tự ngã như là địa đại, không nghĩ: “Ðịa đại là của ta”, không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy có thể liễu tri địa đại.

Vị ấy thắng tri thủy đại… hỏa đại… phong đại… sanh vật… chư Thiên… Sanh chủ… Phạm thiên… Quang Âm thiên… Biến Tịnh thiên… Quảng Quả thiên… Abhibhù (Thắng giả) … Không vô biên xứ… Thức vô biên xứ… Vô sở hữu xứ… Phi tưởng phi phi tưởng xứ… sở kiến… sở văn… sở tư niệm… sở tri… đồng nhất… sai biệt… tất cả…. Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến tự ngã đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến tự ngã như là Niết-bàn. Vị ấy không nghĩ: “Niết-bàn là của ta”, không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy có thể liễu tri Niết-bàn.

(BẬC A-LA-HÁN)

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến tự ngã đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến tự ngã như là địa đại, không nghĩ: “Ðịa đại là của ta”, không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy đã liễu tri địa đại.

Vị ấy thắng tri thủy đại… hỏa đại… phong đại… sanh vật… chư Thiên… Sanh chủ… Phạm thiên… Quang Âm thiên… Biến Tịnh thiên… Quảng Quả thiên… Abhibhù (Thắng giả) … Không vô biên xứ… Thức vô biên xứ… Vô sở hữu xứ… Phi tưởng phi phi tưởng xứ… sở kiến… sở văn… sở tư niệm… sở tri… đồng nhất… sai biệt… tất cả… Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến tự ngã đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến tự ngã như là Niết-bàn, không nghĩ: “Niết-bàn là của ta”,  không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy đã liễu tri Niết-bàn.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng trí địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến tự ngã đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến tự ngã như là địa đại, không nghĩ: “Ðịa đại là của ta”, không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.

Vị ấy thắng tri thủy đại… hỏa đại… phong đại… sanh vật… chư Thiên… Sanh chủ… Phạm thiên… Quang Âm thiên… Biến Tịnh thiên… Quảng Quả thiên… Abhibhù (Thắng giả) … Không vô biên xứ… Thức vô biên xứ… Vô sở hữu xứ… Phi tưởng phi phi tưởng xứ… sở kiến… sở văn… sở tư niệm… sở tri… đồng nhất… sai biệt… tất cả…. Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến tự ngã đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến tự ngã như là Niết-bàn, không nghĩ: “Niết-bàn là của ta”, không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến tự ngã đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến tự ngã như là địa đại, không nghĩ: “Ðịa đại là của ta”, không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.

Vị ấy thắng tri thủy đại… hỏa đại… phong đại… sanh vật… chư Thiên… Sanh chủ… Phạm thiên… Quang Âm thiên… Biến Tịnh thiên… Quảng Quả thiên… Abhibhù (Thắng giả) … Không vô biên xứ… Thức vô biên xứ… Vô sở hữu xứ… Phi tưởng phi phi tưởng xứ… sở kiến… sở văn… sở tư niệm… sở tri… đồng nhất… sai biệt… tất cả…. Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến tự ngã đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến tự ngã như là Niết-bàn, không nghĩ: “Niết-bàn là của ta” – không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng trí địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến tự ngã đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến tự ngã như là địa đại, không nghĩ: “Ðịa đại là của ta”, không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.

Vị ấy thắng tri thủy đại… hỏa đại… phong đại… sanh vật… chư Thiên… Sanh chủ… Phạm thiên… Quang Âm thiên… Biến Tịnh thiên… Quảng Quả thiên… Abhibhù (Thắng giả) … Không vô biên xứ… Thức vô biên xứ… Vô sở hữu xứ… Phi tưởng phi phi tưởng xứ… sở kiến… sở văn… sở tư niệm… sở tri… đồng nhất… sai biệt… tất cả…. Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến tự ngã đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến tự ngã như là Niết-bàn, không nghĩ: “Niết-bàn là của ta”, không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.

(ÐỨC NHƯ LAI)

Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, Như Lai không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến tự ngã đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến tự ngã như là địa đại, không nghĩ: “Ðịa đại là của ta”, không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vì Như Lai đã liễu tri địa đại.

Như Lai thắng tri thủy đại… hỏa đại… phong đại… sanh vật… chư Thiên… Sanh chủ… Phạm thiên… Quang Âm thiên… Biến Tịnh thiên… Quảng Quả thiên… Abhibhù (Thắng giả) … Không vô biên xứ… Thức vô biên xứ… Vô sở hữu xứ… Phi tưởng phi phi tưởng xứ… sở kiến… sở văn… sở tư niệm… sở tri… đồng nhất… sai biệt… tất cả…. Như Lai thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, Như Lai không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến tự ngã đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến tự ngã như là Niết-bàn, không nghĩ: “Niết-bàn là của ta”, không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói vì Như Lai đã liễu tri Niết-bàn.

Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, Như Lai không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến tự ngã đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến tự ngã như là địa đại, không nghĩ: “Ðịa đại là của ta”, không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ, từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật.” Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Như Lai thắng tri thủy đại… hỏa đại… phong đại… sanh vật… chư Thiên… Sanh chủ… Phạm thiên… Quang Âm thiên… Biến Tịnh thiên… Quảng Quả thiên… Abhibhù (Thắng giả) … Không vô biên xứ… Thức vô biên xứ… Vô sở hữu xứ… Phi tưởng phi phi tưởng xứ… sở kiến… sở văn… sở tư niệm… sở tri… đồng nhất… sai biệt… tất cả…. Như Lai thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, Như Lai không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến tự ngã đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến tự ngã như là Niết-bàn, không nghĩ: “Niết-bàn là của ta”, không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì Như Lai biết rằng: “Dục hỷ là căn bản của đau khổ, từ hữu, sanh khởi lên, và già chết đến với loài sinh vật.” Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự trừ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Như vậy, Thế Tôn thuyết giảng. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn.

(HẾT KINH PHÁP MÔN CĂN BẢN)

KINH TẤT CẢ CÁC LẬU HOẶC
(Sabbāsava sutta. MN. 2)

Việt dịch: HT. THÍCH MINH CHÂU

Như vậy ta nghe.

Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī, tại Jetavana (Kỳ Đà Lâm), vườn Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc). Khi ở tại chỗ ấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: Này các Tỷ-kheo!

– Bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

Thế Tôn nói: Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các ngươi “Pháp môn phòng hộ tất cả lậu hoặc”. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Thế Tôn nói như sau:

Này các Tỷ-kheo, Ta giảng sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy, không phải cho người không biết, cho người không thấy. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy “Có như lý tác ý và không như lý tác ý?” Này các Tỷ-kheo, do không như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng. Này các Tỷ-kheo, do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt. Này các Tỷ-kheo, có những lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do phòng hộ được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do thọ dụng được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do tránh né được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ.

(TRI KIẾN)

Này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh; không được thấy các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân, không tuệ tri các pháp cần phải tác ý, không tuệ tri các pháp không cần phải tác ý. Vị này vì không tuệ tri các pháp cần phải tác ý, vì không tuệ tri các pháp không cần phải tác ý, nên tác ý các pháp không cần phải tác ý, và không tác ý các pháp cần phải tác ý.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp không cần phải tác ý mà vị ấy tác ý? Này các Tỷ-kheo, nghĩa là các pháp do vị ấy tác ý mà dục lậu chưa sanh được sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được tăng trưởng; hay hữu lậu chưa sanh được sanh khởi, hay hữu lậu đã sanh được tăng trưởng, hay vô minh lậu chưa sanh được sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được tăng trưởng. Những pháp ấy là những pháp không cần phải tác ý mà vị ấy tác ý.

Này các Tỷ-kheo, và thế nào là các pháp cần phải tác ý mà vị ấy không tác ý? Này các Tỷ-kheo, nghĩa là các pháp do vị ấy tác ý mà dục lậu chưa sanh không sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được trừ diệt, hay hữu lậu chưa sanh không sanh khởi, hay hữu lậu đã sanh được trừ diệt, hay vô minh lậu chưa sanh không sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được trừ diệt. Những pháp ấy là những pháp cần phải tác ý mà các vị ấy không tác ý. Do vị ấy tác ý các pháp không nên tác ý, do vị ấy không tác ý các pháp cần phải tác ý, nên các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng.

Vị ấy không như lý tác ý như sau:

“Ta có mặt trong thời quá khứ hay ta không có mặt trong thời quá khứ?” “Ta có mặt trong thời quá khứ như thế nào?” “Ta có mặt trong thời quá khứ hình vóc như thế nào?” “Trước kia ta là gì và ta đã có mặt như thế nào trong thời quá khứ?”

“Ta sẽ có mặt trong thời vị lai hay ta sẽ không có mặt trong thời vị lai?” “Ta sẽ có mặt trong thời vị lai như thế nào?” “Ta sẽ có mặt trong thời vị lai, hình vóc như thế nào?” Trước kia ta là gì và ta sẽ có mặt như thế nào trong thời vị lai?”

Hay nay vị ấy có nghi ngờ về chính mình trong thời hiện tại: “Ta có mặt hay ta không có mặt?” “Ta có mặt như thế nào?” “Ta có mặt hình vóc như thế nào?” “Chúng sanh này từ đâu đến, và rồi nó sẽ đi đâu?”

Với người không như lý tác ý như vậy, một trong sáu tà kiến này khởi lên: (1) “Ta có tự ngã”, tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn. (2) “Ta không có tự ngã”, tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn. (3) “Do tự mình, ta tưởng tri ta có tự ngã”, tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn. (4) “Do tự mình, ta tưởng tri ta không có tự ngã”, tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn. (5) “Không do tự mình, ta tưởng tri ta có tự ngã”, tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn. (6) Hay tà kiến này khởi lên với người ấy: “Chính tự ngã của ta nói, cảm giác, hưởng thọ quả báo các nghiệp thiện ác đã làm chỗ này, chỗ kia, chính tự ngã ấy của ta là thường trú, thường hằng, hằng tồn, không chuyển biến, và sẽ vĩnh viễn tồn tại”. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là tà kiến, kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến hý luận, kiến tranh chấp, kiến kiết phược. Này các Tỷ-kheo, trói buộc bởi kiến kiết sử, kẻ phàm phu ít nghe không được giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói kẻ ấy không thoát khỏi khổ đau.

Này các Tỷ-kheo, và vị Thánh đệ tử nghe nhiều, được thấy các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh; được thấy các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân, tuệ tri các pháp cần phải tác ý, tuệ tri các pháp không cần phải tác ý. Vị này nhờ tuệ tri các pháp cần phải tác ý, nhờ tuệ tri các pháp không cần phải tác ý, nên không tác ý các pháp không cần phải tác ý, và tác ý các pháp cần phải tác ý.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp không cần phải tác ý và vị này không tác ý? Này các Tỷ-kheo, những pháp nào do vị ấy tác ý mà dục lậu chưa sanh được sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được tăng trưởng; hay hữu lậu chưa sanh được sanh khởi, hay hữu lậu đã sanh được tăng trưởng; hay vô minh lậu chưa sanh được khởi, hay vô minh lậu đã sanh được tăng trưởng. Ðó là những pháp không nên tác ý, và vị ấy không tác ý. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp cần phải tác ý, và vị ấy tác ý? Này các Tỷ-kheo, những pháp nào do vị ấy tác ý mà dục lậu chưa sanh không sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được trừ diệt, hay hữu lậu chưa sanh không sanh khởi, hay hữu lậu đã sanh được trừ diệt; hay vô minh lậu chưa sanh không sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được trừ diệt, đó là những pháp cần phải tác ý, và vị ấy tác ý. Nhờ vị ấy không tác ý các pháp không cần phải tác ý, tác ý các pháp cần phải tác ý, nên các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt.

Vị ấy như lý tác ý: “Ðây là khổ”; như lý tác ý: “Ðây là khổ tập”; như lý tác ý: “Ðây là khổ diệt”; như lý tác ý: “Ðây là con đường đưa đến khổ diệt”. Nhờ vị ấy tác ý như vậy, ba kiết sử: thân kiến, nghi, giới cấm thủ được trừ diệt. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ.

(PHÒNG HỘ)

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do phòng hộ được đoạn trừ? Ở đây, có Tỷ-kheo như lý giác sát, sống phòng hộ với sự phòng hộ mắt. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy sống không phòng hộ với sự phòng hộ mắt, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não có thể khởi lên. Nếu sống phòng hộ với sự phòng hộ mắt, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Vị ấy như lý giác sát, sống phòng hộ với sự phòng hộ tai…; sống phòng hộ với sự phòng hộ mũi…; sống phòng hộ với sự phòng hộ lưỡi…; sống phòng hộ với sự phòng hộ thân…; sống như lý giác sát phòng hộ với sự phòng hộ ý. Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy sống không phòng hộ với sự phòng hộ ý, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy có thể khởi lên. Nếu sống phòng hộ ý, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do phòng hộ được đoạn trừ.

(THỌ DỤNG)

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do thọ dụng được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lý giác sát, thọ dụng y phục, chỉ để ngăn ngừa lạnh, ngăn ngừa nóng, ngăn ngừa sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát, chỉ với mục đích che đậy sự trần truồng.

Vị ấy như lý giác sát, thọ dụng món ăn khất thực không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, mà chỉ để thân này được sống lâu và được bảo dưỡng, để thân này khỏi bị thương hại, để hỗ trợ Phạm hạnh, nghĩ rằng: “Như vậy, ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên các cảm thọ mới, và ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn”.

Vị ấy như lý giác sát, thọ dụng sàng tọa, chỉ để ngăn ngừa lạnh, ngăn ngừa nóng, ngăn ngừa sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loại bò sát, chỉ để giải trừ nguy hiểm của thời tiết, chỉ với mục đích sống độc cư an tịnh.

Vị ấy như lý giác sát thọ dụng dược phẩm trị bệnh, chỉ để ngăn chận các cảm giác thống khổ đã sanh, để được ly khổ hoàn toàn.

Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không thọ dụng như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não có thể khởi lên. Nếu vị ấy thọ dụng như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do thọ dụng được đoạn trừ.

(KHAM NHẪN)

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây, có Tỷ-kheo như lý giác sát, kham nhẫn lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát; kham nhẫn những cách nói mạ lị, phỉ báng. Vị ấy có tánh kham nhẫn các cảm thọ về thân, những cảm thọ thống khổ, khốc liệt, đau nhói, nhức nhối, không sung sướng, không thích thú, chết điếng người. Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không kham nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não có thể khởi lên. Nếu vị ấy kham nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ.

(TRÁNH NÉ)

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do tránh né được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lý giác sát tránh né voi dữ, tránh né ngựa dữ, tránh né bò dữ, tránh né chó dữ, con rắn, khúc cây, gai góc, hố sâu, vực núi, ao nước nhớp, vũng nước. Có những chỗ ngồi không xứng đáng ngồi, những trú xứ không nên lai vãng, những bạn bè ác độc mà nếu giao du thì bị các vị đồng Phạm hạnh có trí nghi ngờ, khinh thường; vị ấy như lý giác sát tránh né chỗ ngồi không xứng đáng ấy, trú xứ không nên lai vãng ấy và các bạn độc ác ấy. Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không tránh né như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy có thể khởi lên. Nếu vị ấy tránh né như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do tránh né được đoạn trừ.

(TRỪ DIỆT)

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lý giác sát không có chấp nhận dục niệm đã khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại dục niệm ấy; không có chấp nhận sân niệm đã khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại sân niệm ấy; không có chấp nhận hại niệm đã khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại hại niệm ấy; không chấp nhận các ác bất thiện pháp luôn luôn khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại các ác bất thiện pháp ấy. Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không trừ diệt như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy có thể khởi lên. Nếu vị ấy trừ diệt như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn trừ.

(TU TẬP)

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lý giác sát tu tập Niệm giác chi, Niệm giác chi này y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, hướng đến từ bỏ; như lý giác sát tu tập Trạch pháp giác chi… tu tập Tinh tấn giác chi… tu tập Hỷ giác chi… tu tập Khinh an giác chi… tu tập Định giác chi… tu tập Xả giác chi, Xả giác chi này y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không tu tập như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy có thể khởi lên. Nếu vị ấy tu tập như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ.

(KẾT LUẬN)

Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo những lậu hoặc nào phải do tri kiến được đoạn trừ đã được tri kiến đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do phòng hộ được đoạn trừ đã được phòng hộ đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do thọ dụng được đoạn trừ đã được thọ dụng đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do kham nhẫn được đoạn trừ đã được kham nhẫn đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do tránh né được đoạn trừ đã được tránh né đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do trừ diệt được đoạn trừ đã được trừ diệt đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do tu tập được đoạn trừ đã được tu tập đoạn trừ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là đã sống phòng hộ với sự phòng hộ tất cả lậu hoặc, đã đoạn diệt khát ái, đã thoát ly kiết sử, đã chánh quán kiêu mạn, đã diệt tận khổ đau.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.

(HẾT KINH TẤT CẢ CÁC LẬU HOẶC)

KINH CHÁNH TRI KIẾN

(Sammāditthi sutta. MN. 9)

Việt dịch: HT. THÍCH MINH CHÂU

Như vậy ta nghe.

Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī, tại Jetavana (Kỳ Đà Lâm), vườn Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc).

Lúc bấy giờ, Tôn giả Sāriputta gọi các Tỷ-kheo: Này các Tỷ-kheo!

– Thưa vâng, Hiền giả, các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sāriputta.

Tôn giả Sāriputta nói như sau:

Chư Hiền, Chánh tri kiến, Chánh tri kiến, được gọi là như vậy. Chư Hiền, cho đến như thế nào, một vị Thánh đệ tử có Chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu Pháp này?

Chúng con từ xa đến để được hiểu ý nghĩa lời nói ấy từ Tôn giả Sāriputta. Thật lành thay, nếu Tôn giả Sāriputta giảng cho ý nghĩa lời nói ấy. Sau khi nghe Tôn giả Sāriputta, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.

Chư Hiền, vậy hãy nghe, hãy khéo tác ý, ta sẽ giảng.

– Thưa vâng, Hiền giả, các Tỷ-kheo vâng đáp Tôn giả Sāriputta.

(TUỆ TRI VỀ BẤT THIỆN VÀ THIỆN)

Tôn giả Sāriputta nói như sau:

Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “bất thiện” và tuệ tri “căn bản bất thiện”, tuệ tri “thiện” và tuệ tri “căn bản thiện”, khi ấy, Thánh đệ tử có Chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu Pháp này.

Chư Hiền, thế nào là bất thiện, thế nào là căn bản bất thiện, thế nào là thiện, thế nào là căn bản thiện?

– Sát sanh là bất thiện, lấy của không cho là bất thiện, tà hạnh trong các dục là bất thiện, nói láo là bất thiện, nói hai lưỡi là bất thiện, ác khẩu là bất thiện, nói phù phiếm là bất thiện, tham dục là bất thiện, sân là bất thiện, tà kiến là bất thiện. Như vậy gọi là bất thiện.

Và chư Hiền, thế nào là căn bản bất thiện?

– Tham là căn bản bất thiện, sân là căn bản bất thiện, si là căn bản bất thiện. Như vậy gọi là căn bản bất thiện.

Và này chư Hiền, thế nào là thiện?

– Từ bỏ sát sanh là thiện, từ bỏ lấy của không cho là thiện, từ bỏ tà hạnh trong các dục là thiện, từ bỏ nói láo là thiện, từ bỏ nói hai lưỡi là thiện, từ bỏ ác khẩu là thiện, từ bỏ nói phù phiếm là thiện, không tham dục là thiện, không sân là thiện, chánh tri kiến là thiện. Như vậy gọi là thiện.

Chư Hiền, thế nào là căn bản thiện?

– Không tham là căn bản thiện, không sân là căn bản thiện, không si là căn bản thiện. Như vậy gọi là căn bản thiện.

Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “bất thiện” như vậy, tuệ tri “căn bản bất thiện” như vậy, tuệ tri “thiện” như vậy, tuệ tri “căn bản thiện” như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên, nhổ tận gốc kiến mạn tùy miên “Ta là”, đoạn trừ vô minh, khiến minh khởi lên, diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại, như vậy Thánh đệ tử có Chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu Pháp này.

(TUỆ TRI VỀ THỨC ĂN)

Lành thay, Hiền giả! Các Tỷ-kheo ấy sau khi hoan hỷ, tín thọ lời nói Tôn giả Sāriputta và hỏi thêm Tôn giả Sāriputta câu hỏi như sau:

Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này, Thánh đệ tử có Chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu Pháp này?

Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Thức ăn”, tuệ tri “Tập khởi của Thức ăn”, tuệ tri “Đoạn diệt của Thức ăn”, và tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Thức ăn”, khi ấy Thánh đệ tử có Chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu Pháp này.

Chư Hiền, thế nào là Thức ăn, thế nào là Tập khởi của Thức ăn, thế nào là Đoạn diệt của Thức ăn, thế nào là Con Đường đưa đến đoạn diệt của Thức ăn?

– Có bốn loại Thức ăn này, khiến các loài chúng sanh đã sanh được an trú hay các loài hữu tình sẽ sanh được hỗ trợ cho sanh. Thế nào là bốn?

– Ðoàn thực, loại thô hay loại tế, Xúc thực là thứ hai, Tư niệm thực là thứ ba, Thức thực là thứ tư. Từ tập khởi của Ái, có tập khởi của Thức ăn; từ đoạn diệt của Ái, có đoạn diệt của Thức ăn; và Thánh Đạo Tám Chánh này là con đường đưa đến đoạn diệt của Thức ăn, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.

Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Thức ăn” như vậy, tuệ tri “Tập khởi của Thức ăn” như vậy, tuệ tri “Đoạn diệt của Thức ăn” như vậy, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Thức ăn” như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên, nhổ tận gốc kiến mạn tùy miên “Ta là”, đoạn trừ vô minh, khiến minh khởi lên, diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại, như vậy Thánh đệ tử có Chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu Pháp này.

(TUỆ TRI VỀ BỐN THÁNH ĐẾ)

Lành thay, Hiền giả! …

Hiền giả, có pháp môn nào khác…?

Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Khổ”, tuệ tri “Tập khởi của Khổ”, tuệ tri “Đoạn diệt của Khổ”, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Khổ”, khi ấy Thánh đệ tử có Chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu Pháp này.

Chư Hiền, thế nào là Khổ, thế nào là Tập khởi của Khổ, thế nào là Đoạn diệt của Khổ, thế nào là Con Đường đưa đến đoạn diệt của Khổ?

– Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi khổ ưu não là khổ, cầu không được là khổ, tóm lại Năm thủ uẩn là khổ. Như vậy gọi là Khổ.

Chư Hiền, thế nào là Tập khởi của Khổ?

– Chính là Ái đưa đến tái sanh, cùng khởi hỷ dục và tham hướng đến tái sanh, cùng khởi hỷ dục và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, tức là Dục ái, Hữu ái, Phi hữu ái. Như vậy gọi là Tập khởi của Khổ.

Chư Hiền, thế nào là Đoạn diệt của Khổ?

– Ðó là sự đoạn diệt, ly tham, không có dư tàn, sự quăng bỏ, sự từ bỏ, sự giải thoát, sự vô chấp khát ái ấy.

Chư Hiền, thế nào là Con Đường đưa đến đoạn diệt của Khổ?

– Chính là Thánh Đạo Tám Chánh đưa đến Khổ diệt, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.

Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Khổ” như vậy, tuệ tri “Tập khởi của Khổ” như vậy, tuệ tri “Đoạn diệt của Khổ” như vậy, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Khổ” như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên… và thành tựu diệu Pháp này.

(TUỆ TRI VỀ GIÀ VÀ CHẾT)

Lành thay, Hiền giả! …

Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác…?

Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Già chết”, tuệ tri “Tập khởi của Già chết”, tuệ tri “Đoạn diệt của Già chết”, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Già chết”, khi ấy Thánh đệ tử có Chánh tri kiến… và thành tựu diệu Pháp này.

Chư Hiền, thế nào là Già chết, thế nào là Tập khởi của Già chết, thế nào là Đoạn diệt của Già chết, thế nào là Con Đường đưa đến đoạn diệt của Già chết?

– Thuộc bất kỳ hữu tình giới nào, trong từng mỗi loại hữu tình, sự già cả, suy lão, rụng răng, tóc bạc da nhăn, tuổi thọ ngày một hao mòn, bại hoại các căn. Như vậy gọi là Già. Chư Hiền, thế nào là Chết?

– Thuộc bất kỳ hữu tình giới nào trong từng mỗi loại hữu tình, sự mệnh một, từ trần, hủy hoại, hoại diệt, tử biệt, mệnh chung, hủy hoại các uẩn, vất bỏ hình hài. Như vậy gọi là Chết.

Già như vậy và Chết như vậy, như vậy gọi là Già chết. Từ sự tập khởi của Sanh, có sự tập khởi của Già chết; từ sự đoạn diệt của Sanh, có sự đoạn diệt của Già chết; và Thánh Đạo Tám Chánh là con đường đưa đến đoạn diệt của Già chết…

Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Già chết” như vậy, tuệ tri “Tập khởi của Già chết” như vậy, tuệ tri “Đoạn diệt của Già chết” như vậy, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Già chết” như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên…, và thành tựu diệu Pháp này.

(TUỆ TRI VỀ SANH)

Lành thay, Hiền giả! … Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này, Thánh đệ tử… thành tựu diệu Pháp này?

Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Sanh”, tuệ tri “Tập khởi của Sanh”, tuệ tri “Đoạn diệt của Sanh”, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Sanh”, khi ấy Thánh đệ tử có Chánh tri kiến… và thành tựu diệu pháp này.

Chư Hiền, thế nào là Sanh, thế nào là Tập khởi của Sanh, thế nào là Đoạn diệt của Sanh, thế nào là Con Đường đưa đến đoạn diệt của Sanh?

– Thuộc bất kỳ hữu tình giới nào trong từng mỗi loại hữu tình, sự sanh, hiện khởi, xuất hiện, hiện diện, hiện hành các uẩn, tụ đắc các xứ. Như vậy gọi là Sanh. Từ sự tập khởi của Hữu, có sự tập khởi của Sanh; từ sự đoạn diệt của Hữu, có sự đoạn diệt của Sanh; và Thánh Đạo Tám Chánh là con đường đưa đến đoạn diệt của Sanh.

Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Sanh” như vậy, tuệ tri “Tập khởi của Sanh” như vậy, tuệ tri “Đoạn diệt của Sanh” như vậy, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Sanh” như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên… và thành tựu diệu Pháp này.

(TUỆ TRI VỀ HỮU)

Lành thay, Hiền giả! … Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này, Thánh đệ tử… thành tựu diệu Pháp này?

Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Hữu”, tuệ tri “Tập khởi của Hữu”, tuệ tri “Đoạn diệt của Hữu”, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Hữu”, khi ấy vị Thánh đệ tử có Chánh tri kiến… và thành tựu diệu Pháp này.

Chư Hiền, thế nào là Hữu, thế nào là Tập khởi của Hữu, thế nào là Đoạn diệt của Hữu, thế nào là Con Đường đưa đến đoạn diệt của Hữu?

– Chư Hiền, có ba Hữu này: Dục hữu, Sắc hữu, Vô sắc hữu. Từ tập khởi của Thủ, có tập khởi của Hữu; từ đoạn diệt của Thủ, có đoạn diệt của Hữu; và Thánh Đạo Tám Chánh là con đường đưa đến đoạn diệt của Hữu…

Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Hữu” như vậy, tuệ tri “Tập khởi của Hữu” như vậy, tuệ tri “Đoạn diệt của Hữu” như vậy, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Hữu” như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên… và thành tựu diệu Pháp này.

(TUỆ TRI VỀ THỦ)

Lành thay, Hiền giả! … Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác…?

Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Thủ”, tuệ tri “Tập khởi của Thủ”, tuệ tri “Đoạn diệt của Thủ”, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Thủ”, khi ấy Thánh đệ tử có Chánh tri kiến… và thành tựu diệu Pháp này.

Chư Hiền, thế nào là Thủ, thế nào là Tập khởi của Thủ, thế nào là Đoạn diệt của Thủ, thế nào là Con Đường đưa đến đoạn diệt của Thủ?

– Chư Hiền, có bốn Thủ này: Dục thủ, Kiến thủ, Giới cấm thủ, Ngã luận thủ. Từ tập khởi của Ái, có tập khởi của Thủ; từ đoạn diệt của Ái, có đoạn diệt của Thủ; và Thánh Đạo Tám Chánh này là con đường đưa đến đoạn diệt của Thủ, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.

Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Thủ” như vậy, tuệ tri “Tập khởi của Thủ” như vậy, tuệ tri “Đoạn diệt của Thủ” như vậy, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Thủ” như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên… và thành tựu diệu Pháp này.

(TUỆ TRI VỀ ÁI)

Lành thay, Hiền giả! … Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này, Thánh đệ tử… thành tựu diệu Pháp này?

Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Ái”, tuệ tri “Tập khởi của Ái”, tuệ tri “Đoạn diệt của Ái”, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Ái”, khi ấy Thánh đệ tử có Chánh tri kiến… và thành tựu diệu Pháp này.

Chư Hiền, thế nào là Ái, thế nào là Tập khởi của Ái, thế nào là Đoạn diệt của Ái, thế nào là Con Đường đưa đến đoạn diệt của Ái?

– Chư Hiền, có sáu loại Ái này: Sắc ái, Thanh ái, Hương ái, Vị ái, Xúc ái, Pháp ái. Từ tập khởi của Thọ, có tập khởi của Ái; từ đoạn diệt của Thọ, có đoạn diệt của Ái; và Thánh Đạo Tám Chánh là con đường đưa đến đoạn diệt của Ái.

Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Ái” như vậy, tuệ tri “Tập khởi của Ái” như vậy, tuệ tri “Đoạn diệt của Ái” như vậy, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Ái” như vậy, khi ấy, vị ấy, đoạn trừ tất cả tham tùy miên… và thành tựu diệu Pháp này.

(TUỆ TRI VỀ THỌ)

Lành thay, Hiền giả! … Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác…?

Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Thọ”, tuệ tri “Tập khởi của Thọ”, tuệ tri “Đoạn diệt của Thọ”, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Thọ”, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến… và thành tựu diệu Pháp này.

Chư Hiền, thế nào là Thọ, thế nào là Tập khởi của Thọ, thế nào là Đoạn diệt của Thọ, thế nào là Con Đường đưa đến đoạn diệt của Thọ?

– Chư Hiền, có sáu loại Thọ này: Thọ do nhãn xúc sanh, Thọ do nhĩ xúc sanh, Thọ do tỷ xúc sanh, Thọ do thiệt xúc sanh, Thọ do thân xúc sanh, Thọ do ý xúc sanh. Từ tập khởi của Xúc, có tập khởi của Thọ; từ đoạn diệt của Xúc, có đoạn diệt của Thọ; và Thánh Đạo Tám Chánh là con đường đưa đến đoạn diệt của Thọ…

Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Thọ” như vậy, tuệ tri “Tập khởi của Thọ” như vậy, tuệ tri “Đoạn diệt của Thọ” như vậy, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Thọ” như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên… và thành tựu diệu Pháp này.

(TUỆ TRI VỀ XÚC)

Lành thay, Hiền giả! … Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác…?

Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Xúc”, tuệ tri “Tập khởi của Xúc”, tuệ tri “Đoạn diệt của Xúc”, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Xúc”, khi ấy Thánh đệ tử có Chánh tri kiến… và thành tựu diệu Pháp này.

Chư Hiền, thế nào là Xúc, thế nào là Tập khởi của Xúc, thế nào là Đoạn diệt của Xúc, thế nào là Con Đường đưa đến đoạn diệt của Xúc?

– Chư Hiền, có sáu loại Xúc này: Nhãn xúc, Nhĩ xúc, Tỷ xúc, Thiệt xúc, Thân xúc, Ý xúc. Từ tập khởi của Sáu nhập, có tập khởi của Xúc; từ đoạn diệt của Sáu nhập, có đoạn diệt của Xúc; và Thánh Đạo Tám Chánh là con đường đưa đến đoạn diệt của Xúc…

Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Xúc” như vậy, tuệ tri “Tập khởi của Xúc” như vậy, tuệ tri “Đoạn diệt của Xúc” như vậy, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Xúc” như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên… và thành tựu diệu Pháp này.

(TUỆ TRI VỀ SÁU NHẬP)

Lành thay, Hiền giả! … Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác…?

Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Sáu nhập”, tuệ tri “Tập khởi của Sáu nhập”, tuệ tri “Đoạn diệt của Sáu nhập”, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Sáu nhập”, khi ấy Thánh đệ tử có Chánh tri kiến… và thành tựu diệu Pháp này.

Chư Hiền, thế nào là Sáu nhập, thế nào là Tập khởi của Sáu nhập, thế nào là Đoạn diệt của Sáu nhập, thế nào là Con Đường đưa đến đoạn diệt của Sáu nhập?

– Chư Hiền, có Sáu nhập này: Nhãn nhập, Nhĩ nhập, Tỷ nhập, Thiệt nhập, Thân nhập, Ý nhập. Từ tập khởi của Danh-Sắc có tập khởi của Sáu nhập; từ đoạn diệt của Danh-Sắc có đoạn diệt của Sáu nhập; và Thánh Đạo Tám Chánh là con đường đưa đến đoạn diệt của Sáu nhập…

Chư Hiền, khi nào vị Thánh đệ tử tuệ tri “Sáu nhập” như vậy, tuệ tri “Tập khởi của Sáu nhập” như vậy, tuệ tri “Đoạn diệt của Sáu nhập” như vậy, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Sáu nhập” như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên… và thành tựu diệu Pháp này.

(TUỆ TRI VỀ DANH SẮC)

Lành thay, Hiền giả! … Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác…?

Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Danh-Sắc”, tuệ tri “Tập khởi của Danh-Sắc”, tuệ tri “Đoạn diệt của Danh-Sắc”, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Danh-Sắc”, khi ấy Thánh đệ tử có Chánh tri kiến… và thành tựu diệu Pháp này.

Chư Hiền, thế nào là Danh-Sắc, thế nào là Tập khởi của Danh-Sắc, thế nào là Đoạn diệt của Danh-Sắc, thế nào là Con Đường đưa đến đoạn diệt của Danh-Sắc?

– Thọ, tưởng, tư, xúc, tác ý, như vậy gọi là Danh; bốn đại và sắc do bốn đại tạo thành, như vậy gọi là Sắc. Đây là Danh và đây là Sắc, như vậy gọi là Danh-Sắc. Từ tập khởi của Thức, có tập khởi của Danh-Sắc; từ đoạn diệt của Thức, có đoạn diệt của Danh-Sắc; và Thánh Ðạo Tám Chánh là con đường đưa đến đoạn diệt của Danh-Sắc…

Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Danh-Sắc” như vậy, tuệ tri “Tập khởi của Danh-Sắc” như vậy, tuệ tri “Đoạn diệt của Danh-Sắc” như vậy, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Danh-Sắc” như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên… và thành tựu diệu Pháp này.

(TUỆ TRI VỀ THỨC)

Lành thay, Hiền giả! … Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác…?

Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Thức”, tuệ tri “Tập khởi của Thức”, tuệ tri “Đoạn diệt của Thức”, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Thức”, khi ấy Thánh đệ tử có Chánh tri kiến… và thành tựu diệu Pháp này.

Chư Hiền, thế nào là Thức, thế nào là Tập khởi của Thức, thế nào là Đoạn diệt của Thức, thế nào là Con Đường đưa đến đoạn diệt của Thức?

– Chư Hiền, có sáu loại Thức này: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức. Từ tập khởi của Hành, có tập khởi của Thức; từ đoạn diệt của Hành có đoạn diệt của Thức; và Thánh Đạo Tám Chánh là con đường đưa đến đoạn diệt của Thức…

Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Thức” như vậy, tuệ tri “Tập khởi của Thức” như vậy, tuệ tri “Đoạn diệt của Thức” như vậy, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Thức” như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên… và thành tựu diệu Pháp này.

(TUỆ TRI VỀ HÀNH)

Lành thay, Hiền giả! … Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác…?

Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Hành”, tuệ tri “Tập khởi của Hành”, tuệ tri “Đoạn diệt của Hành”, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Hành”, khi ấy Thánh đệ tử có Chánh tri kiến… và thành tựu diệu Pháp này.

Chư Hiền, thế nào là Hành, thế nào là Tập khởi của Hành, thế nào là Đoạn diệt của Hành, thế nào là Con Đường đưa đến đoạn diệt của Hành?

– Chư Hiền, có ba loại Hành này: Thân hành, Ngữ hành, Tâm hành. Từ tập khởi của Vô minh, có tập khởi của Hành; từ đoạn diệt của Vô minh, có đoạn diệt của Hành; và Thánh Đạo Tám Chánh là con đường đưa đến đoạn diệt của Hành…

Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Hành” như vậy, tuệ tri “Tập khởi của Hành” như vậy, tuệ tri “Đoạn diệt của Hành” như vậy, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Hành” như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên… và thành tựu diệu Pháp này.

(TUỆ TRI VỀ VÔ MINH)

Lành thay, Hiền giả! … Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác…?

Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Vô minh”, tuệ tri “Tập khởi của Vô minh”, tuệ tri “Đoạn diệt của Vô minh”, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Vô minh”, khi ấy, Thánh đệ tử có Chánh tri kiến… và thành tựu diệu Pháp này.

Chư Hiền, thế nào là Vô minh, thế nào là Tập khởi của Vô minh, thế nào là Đoạn diệt của Vô minh, thế nào là Con Đường đưa đến đoạn diệt của Vô minh?

– Sự không tuệ tri về Khổ, không tuệ tri về Khổ tập, không tuệ tri về Khổ diệt, không tuệ tri về Con Đường đưa đến Khổ diệt. Như vậy gọi là Vô minh. Từ tập khởi của Lậu hoặc, có tập khởi của Vô minh; từ đoạn diệt của Lậu hoặc, có đoạn diệt của Vô minh; và Thánh Đạo Tám Chánh là con đường đưa đến đoạn diệt của Vô minh…

Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Vô minh” như vậy, tuệ tri “Tập khởi của Vô minh” như vậy, tuệ tri “Đoạn diệt của Vô minh” như vậy, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Vô minh” như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên… và thành tựu diệu Pháp này.

(TUỆ TRI VỀ LẬU HOẶC)

Lành thay, Hiền giả! Các vị Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời nói Tôn giả Sariputta, liền hỏi thêm Tôn giả Sariputta câu hỏi như sau:

Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này Thánh đệ tử có Chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu Pháp này?

Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Lậu hoặc”, tuệ tri “Tập khởi của Lậu hoặc”, tuệ tri “Đoạn diệt của Lậu hoặc”, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Lậu hoặc”; khi ấy Thánh đệ tử có Chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu Pháp này.

Chư Hiền, thế nào là Lậu hoặc, thế nào là Tập khởi của Lậu hoặc, thế nào là Đoạn diệt của Lậu hoặc, thế nào là Con Đường đưa đến đoạn diệt của Lậu hoặc? – Có ba Lậu hoặc này: Dục lậu, Hữu lậu, Vô minh lậu. Từ tập khởi của Vô minh có tập khởi của Lậu hoặc; từ đoạn diệt của Vô minh có đoạn diệt của Lậu hoặc; và Thánh Đạo Tám Chánh này là con đường đưa đến đoạn diệt của Lậu hoặc, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.

Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri “Lậu hoặc” như vậy, tuệ tri “Tập khởi của Lậu hoặc” như vậy, tuệ tri “Đoạn diệt của Lậu hoặc” như vậy, tuệ tri “Con Đường đưa đến đoạn diệt của Lậu hoặc” như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên, nhổ tận gốc kiến mạn tùy miên “Ta là”, đoạn trừ vô minh, khiến minh khởi lên, diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại. Như vậy, Thánh đệ tử có Chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu Pháp này.

Tôn giả Sariputta thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời giảng của Tôn giả Sariputta.

KINH NIỆM XỨ

(Satipatthàna sutta. MN. 10)

Việt dịch: HT Thích Minh Châu

Như vậy ta nghe. Một thời Thế Tôn ở xứ Kuru, Kammassadhamma là đô thị của xứ Kuru.

Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: Này các Tỷ-kheo! – Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo vâng đáp Thế Tôn.

Thế Tôn thuyết như sau:

Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm Xứ.

Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

(QUÁN THÂN)

Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân?

Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy tuệ tri “thở vô dài”; hay khi thở ra dài, vị ấy tuệ tri “thở ra dài”. Thở vô ngắn, vị ấy tuệ tri “thở vô ngắn”; hay khi thở ra ngắn, vị ấy tuệ tri “thở ra ngắn”. Cảm giác toàn thân, tỉnh giác thở vô, vị ấy tập; Cảm giác toàn thân, tỉnh giác thở ra, vị ấy tập. An tịnh toàn thân, tỉnh giác thở vô, vị ấy tập; An tịnh toàn thân, tỉnh giác thở ra, vị ấy tập.

Này các Tỷ-kheo, như người thợ quay hay học trò người thợ quay thiện xảo khi quay dài, tuệ tri “quay dài”, hay khi quay ngắn, tuệ tri “quay ngắn”. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi thở vô dài, tuệ tri “thở vô dài”; hay khi thở ra dài, tuệ tri “thở ra dài”. Khi thở vô ngắn, tuệ tri “thở vô ngắn”; hay khi thở ra ngắn, tuệ tri “thở ra ngắn”. Cảm giác toàn thân, tỉnh giác thở vô, vị ấy tập; Cảm giác toàn thân, tỉnh giác thở ra, vị ấy tập. An tịnh toàn thân, tỉnh giác thở vô, vị ấy tập; An tịnh toàn thân, tỉnh giác thở ra, vị ấy tập.

Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên thân, hay sống quán tánh diệt-tận trên thân, hay sống quán tánh sanh-diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi đi, tuệ tri “đi”; khi đứng, tuệ tri “đứng”; khi ngồi, tuệ tri “ngồi”; khi nằm, tuệ tri “nằm”. Thân thể được sử dụng như thế nào, vị ấy tuệ tri thân như thế ấy.

Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên thân, hay sống quán tánh diệt-tận trên thân, hay sống quán tánh sanh-diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỳ-kheo khi bước tới bước lui, biết rõ việc mình đang làm; khi ngó tới ngó lui, biết rõ việc mình đang làm; khi co tay, khi duỗi tay, biết rõ việc mình đang làm; khi mang áo tăng-già-lê, mang bát, mang y, biết rõ việc mình đang làm; khi ăn, uống, nhai, nếm, biết rõ việc mình đang làm; khi đại tiện, tiểu tiện, biết rõ việc mình đang làm; khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng, biết rõ việc mình đang làm.

Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên thân, hay sống quán tánh diệt-tận trên thân, hay sống quán tánh sanh-diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này: “Ðây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, niêm dịch, nước ở khớp xương, nước tiểu.”

Này các Tỷ-kheo, cũng như một bao đồ, hai đầu trống đựng đầy các loại hột như gạo, lúa, đậu xanh, đậu lớn, mè, gạo đã xay rồi. Một người có mắt, đổ các hột ấy ra và quán sát: “Ðây là hột gạo, đây là hột lúa, đây là đậu xanh, đây là đậu lớn, đây là mè, đây là hột lúa đã xay rồi.” Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo quán sát thân này dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này: “Ðây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, niêm dịch, nước ở khớp xương, nước tiểu.”

Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên thân, hay sống quán tánh diệt-tận trên thân, hay sống quán tánh sanh-diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này về vị trí các giới và sự sắp đặt các giới: “Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại.” Này các Tỷ-kheo, như một người đồ tể thiện xảo, hay đệ tử của một người đổ tể giết một con bò, ngồi cắt chia từng thân phần tại ngã tư đường. Cũng vậy, Tỷ-kheo quán sát thân này về vị trí các giới và sự sắp đặt các giới: “Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại.”

Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên thân, hay sống quán tánh diệt-tận trên thân, hay sống quán tánh sanh-diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa một ngày, hai ngày, ba ngày, thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen lại, nát thối ra. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy.”

Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên thân, hay sống quán tánh diệt-tận trên thân, hay sống quán tánh sanh-diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, bị các loài quạ ăn, bị các loài diều hâu ăn, bị các chim kên ăn, bị các loài chó ăn, bị các loài giả can ăn, bị các loài côn trùng ăn. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản chất là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy.”

Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên thân, hay sống quán tánh diệt-tận trên thân, hay sống quán tánh sanh-diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, với các bộ xương còn liên kết với nhau, còn dính thịt và máu, còn được các đường gân cột lại…; với các bộ xương còn liên kết với nhau, không còn dính thịt nhưng còn dính máu, còn được các đường gân cột lại…; với các bộ xương không còn dính thịt, dính máu, còn được các đường gân cột lại, chỉ còn có xương không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia. Ở đây là xương tay, ở đây là xương chân, ở đây là xương ống, ở đây là xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở đây là xương sống, ở đây là xương đầu. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy.”

Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên thân, hay sống quán tánh diệt-tận trên thân, hay sống quán tánh sanh-diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.

Lại nữa này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, chỉ còn toàn xương trắng màu vỏ ốc…, chỉ còn một đống xương lâu hơn ba năm…, chỉ còn là xương thối trở thành bột. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy.”

Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên thân, hay sống quán tánh diệt-tận trên thân, hay sống quán tánh sanh-diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.

(QUÁN THỌ)

Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ?

Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo khi cảm giác lạc thọ, tuệ tri “cảm giác lạc thọ”; khi cảm giác khổ thọ, tuệ tri “cảm giác khổ thọ”; khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ, tuệ tri “cảm giác bất khổ bất lạc thọ”; khi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất, tuệ tri “cảm giác lạc thọ thuộc vật chất”; khi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất, tuệ tri “cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất”; khi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất, tuệ tri “cảm giác khổ thọ thuộc vật chất”; khi cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất, tuệ tri “cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất”; khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất, tuệ tri “cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất”; khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất, tuệ tri “cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất”.

Như vậy, vị ấy sống quán thọ trên các nội thọ, hay sống quán thọ trên các ngoại thọ, hay sống quán thọ trên cả nội thọ, ngoại thọ. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các thọ, hay sống quán tánh diệt tận trên các thọ, hay sống quán tánh sanh diệt trên các thọ. “Có thọ đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ.

(QUÁN TÂM)

Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm?

Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo, với tâm có tham, tuệ tri “tâm có tham”; với tâm không tham, tuệ tri “tâm không tham”. Với tâm có sân, tuệ tri “tâm có sân”; với tâm không sân, tuệ tri “tâm không sân”. Với tâm có si, tuệ tri “tâm có si”; với tâm không si, tuệ tri “tâm không si”. Với tâm thâu nhiếp, tuệ tri “tâm thâu nhiếp”; với tâm tán loạn, tuệ tri “tâm tán loạn”. Với tâm quảng đại, tuệ tri “tâm quảng đại”; với tâm không quảng đại, tuệ tri “tâm không quảng đại”. Với tâm hữu hạn, tuệ tri “tâm hữu hạn”; với tâm vô thượng, tuệ tri “tâm vô thượng”. Với tâm có định, tuệ tri “tâm có định”; với tâm không định, tuệ tri “tâm không định”. Với tâm giải thoát, tuệ tri “tâm có giải thoát”; với tâm không giải thoát, tuệ tri “tâm không giải thoát”.

Như vậy, vị ấy sống quán tâm trên nội tâm, hay sống quán tâm trên ngoại tâm, hay sống quán tâm trên cả nội tâm, ngoại tâm. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên tâm, hay sống quán tánh diệt-tận trên tâm, hay sống quán tánh sanh-diệt trên tâm. “Có tâm đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm.

(QUÁN PHÁP)

Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp? – Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Năm triền cái.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Năm triền cái?

Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nội tâm có ái dục, tuệ tri “nội tâm có ái dục”; hay nội tâm không có ái dục, tuệ tri “nội tâm không có ái dục”. Và với ái dục chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; hay với ái dục đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; hay với ái dục đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.

Tỳ kheo nội tâm có sân hận, tuệ tri “nội tâm có sân hận”; hay nội tâm không có sân hận, tuệ tri “nội tâm không có sân hận”. Và với sân hận chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; hay với sân hận đã sanh, nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; hay với sân hận đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.

Tỳ kheo nội tâm có hôn trầm thụy miên, tuệ tri “nội tâm có hôn trầm thụy miên”; hay nội tâm không có hôn trầm thụy miên, tuệ tri “nội tâm không có hôn trầm thụy miên”. Và với hôn trầm thụy miên chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; hay với hôn trầm thụy miên đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; hay với hôn trầm thụy miên đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.

Tỳ kheo nội tâm có trạo hối, tuệ tri “nội tâm có trạo hối”; hay nội tâm không có trạo hối, tuệ tri “nội tâm không có trạo hối”. Và với trạo hối chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; với trạo hối đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; với trạo hối đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.

Tỳ kheo nội tâm có nghi, tuệ tri “nội tâm có nghi”; hay nội tâm không có nghi, tuệ tri “nội tâm không có nghi”. Và với nghi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; hay với nghi đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; hay với nghi đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.

Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp, hay sống quán pháp trên các ngoại pháp, hay sống quán pháp trên cả nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp, hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp, hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. “Có những pháp ở đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Năm triền cái.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Năm thủ uẩn.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Năm thủ uẩn?

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo suy tư: Ðây là sắc, đây là sắc tập, đây là sắc diệt. Ðây là thọ, đây là thọ tập, đây là thọ diệt. Ðây là tưởng, đây là tưởng tập, đây là tưởng diệt. Ðây là hành, đây là hành tập, đây là hành diệt. Ðây là thức, đây là thức tập, đây là thức diệt.

Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp, hay sống quán pháp trên các ngoại pháp, hay sống quán pháp trên cả nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên các pháp, hay sống quán tánh diệt-tận trên các pháp, hay sống quán tánh sanh-diệt trên các pháp. “Có những pháp ở đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Năm thủ uẩn.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Sáu nội ngoại xứ.

Thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Sáu nội ngoại xứ?

Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo tuệ tri “mắt” và tuệ tri “các sắc”, do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.

Tỷ-kheo tuệ tri “tai” và tuệ tri “các tiếng”… Tuệ tri “mũi” và tuệ tri “các hương”… Tuệ tri “lưỡi” và tuệ tri “các vị”… Tuệ tri “thân” và tuệ tri “các xúc”… Tuệ tri “ý” và tuệ tri “các pháp”, do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.

Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp, hay sống quán pháp trên các ngoại pháp, hay sống quán pháp trên cả nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp, hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp, hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. “Có những pháp ở đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Sáu nội ngoại xứ.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy giác chi.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy giác chi?

Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo nội tâm có Niệm giác chi, tuệ tri “nội tâm có Niệm giác chi”; hay nội tâm không có Niệm giác chi, tuệ tri “nội tâm không có Niệm giác chi”. Và với Niệm giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; hay với Niệm giác chi đã sanh, nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy. Tỷ-kheo nội tâm có Trạch pháp giác chi…; nội tâm có Tinh tấn giác chi…; nội tâm có Hỷ giác chi…; nội tâm có Khinh an giác chi…; nội tâm có Định giác chi…; Tỷ-kheo nội tâm có Xả giác chi, tuệ tri “nội tâm có Xả giác chi”; hay nội tâm không có Xả giác chi, tuệ tri “nội tâm không có Xả giác chi”. Và với Xả giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; hay với Xả giác chi đã sanh nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy.

Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp, hay sống quán pháp trên các ngoại pháp, hay sống quán pháp trên cả nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên các pháp, hay sống quán tánh diệt-tận trên các pháp, hay sống quán tánh sanh-diệt trên các pháp. “Có những pháp ở đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến Chánh trí, Chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy giác chi.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị ấy sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế?

Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như thật tuệ tri “Ðây là Khổ”; như thật tuệ tri “Ðây là Khổ tập”; như thật tuệ tri “Ðây là Khổ diệt”; như thật tuệ tri “Ðây là Con Đường đưa đến Khổ diệt”.

Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp, hay sống quán pháp trên các ngoại pháp, hay sống quán pháp trên cả nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên các pháp, hay sống quán tánh diệt-tận trên các pháp, hay sống quán tánh sanh-diệt trên các pháp. “Có những pháp ở đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh Đế.

(KẾT LUẬN)

Này các Tỷ-kheo, vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: hoặc là chứng Chánh Trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất Hoàn.

Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến bảy năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này như vậy trong sáu năm, trong năm năm, trong bốn năm, trong ba năm, trong hai năm, trong một năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: hoặc là chứng Chánh Trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất Hoàn.

Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến một năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này trong bảy tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: hoặc là chứng Chánh Trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất Hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần gì bảy tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này trong sáu tháng, trong năm tháng, trong bốn tháng, trong ba tháng, trong hai tháng, trong một tháng, trong nửa tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: hoặc là chứng Chánh Trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất Hoàn.

Này các Tỷ-kheo, không cần gì nửa tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: hoặc là chứng Chánh Trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất Hoàn.

Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu Chánh Trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm Xứ.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.

(HẾT KINH NIỆM XỨ)

KINH THÁNH CẦU
(Ariyapariyesanā sutta. 26. )

Như vậy ta nghe.

Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī, tại Jetavana, vườn Anāthapiṇḍika.

Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đến Sāvatthī để khất thực. Có một số đông Tỷ-kheo đến chỗ Tôn giả Ānanda ở, sau khi đến, nói với Tôn giả Ānanda:

– Hiền giả, đã lâu chúng ta chưa được tận mặt nghe Thế Tôn thuyết pháp. Lành thay, Hiền giả Ānanda, nếu chúng ta được tận mặt nghe Thế Tôn thuyết pháp!

– Các Tôn giả hãy đến chỗ Bà-la-môn Rammaka ở, và các Tôn giả sẽ được tận mặt nghe Thế Tôn thuyết pháp.

– Thưa vâng Hiền giả, các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Ānanda.

Rồi Thế Tôn, khất thực ở Sāvatthī xong, sau buổi ăn trên con đường đi khất thực trở về, cho gọi Tôn giả Ānanda:

– Này Ānanda, chúng ta hãy đi đến Pubbarama (Ðông Viên), ngôi lầu của Migaramatu (Lộc Mẫu Giảng Ðường) để nghỉ trưa.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn, Tôn giả Ānanda vâng đáp Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với Tôn giả Ānanda đi đến vườn Pubbarama, ngôi lầu của Migaramatu để nghỉ trưa. Thế Tôn vào buổi chiều từ thiền tịnh đứng dậy, gọi Tôn giả Ānanda:

– Này Ānanda, chúng ta hãy đi đến Pubbakotthaka để rửa tay, rửa chân.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn, Tôn giả Ānanda vâng đáp Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với Tôn giả Ānanda đi đến Pubbakotthaka để rửa tay, rửa chân. Sau khi rửa tay, rửa chân ở Pubbalotthaka xong, Thế Tôn bước lên đứng trên bờ, đắp một tấm y, phơi tay chân cho khô. Rồi Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, tịnh thất của Bà-la-môn Rammaka không xa; bạch Thế Tôn, tịnh thất của Bà-la-môn Rammaka là khả ái; bạch Thế Tôn, tịnh thất của Bà-la-môn Rammaka là khả lạc; bạch Thế Tôn, lành thay, nếu Thế Tôn vì lòng từ bi đi đến tịnh thất của Bà-la-môn Rammaka!

Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi Thế Tôn đi đến tịnh thất của Bà-la-môn Rammaka. Lúc bấy giờ, một số đông Tỷ-kheo đang hội họp tại tịnh thất của Bà-la-môn Rammaka để thuyết pháp. Thế Tôn đứng chờ ngoài cửa cho đến khi thuyết pháp xong. Thế Tôn biết cuộc thuyết pháp đã xong, liền đằng hắng và gõ vào thanh cửa. Các Tỷ-kheo ấy mở cửa cho Thế Tôn. Rồi Thế Tôn bước vào tịnh thất của Bà-la-môn Rammaka và ngồi lên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, các ngươi nay hội họp bàn vấn đề gì? Và câu chuyện gì giữa các ngươi bị gián đoạn?

– Bạch Thế Tôn, câu chuyện giữa chúng con thuộc về Thế Tôn và câu chuyện ấy bị gián đoạn khi Thế Tôn đến.

– Này các Tỷ-kheo, lành thay khi Thiện nam tử các ngươi, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, cùng nhau hội họp để luận bàn đạo pháp. Này các Tỷ-kheo, khi các ngươi hội họp với nhau, có hai việc cần phải làm: Hoặc luận bàn đạo pháp, hoặc giữ sự im lặng của bậc Thánh.

(HAI LOẠI TẦM CẦU)

Này các Tỷ-kheo, có hai loại tầm cầu này: Thánh cầu và phi Thánh cầu. Chư Tỷ-kheo, và thế nào là phi Thánh cầu? – Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình bị sanh lại tầm cầu cái bị sanh; tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già; tự mình bị bệnh lại tìm cầu cái bị bệnh; tự mình bị chết lại tìm cầu cái bị chết; tự mình bị sầu lại tìm cầu cái bị sầu; tự mình bị ô nhiễm lại tầm cầu cái bị ô nhiễm.

Này các Tỷ-kheo, cái gì theo các ngươi gọi là bị sanh? – Này các Tỷ-kheo, vợ con là bị sanh; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị sanh; dê và cừu là bị sanh; gà và heo là bị sanh; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị sanh; vàng và bạc là bị sanh. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị sanh, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị sanh lại tầm cầu cái bị sanh.

Và này các Tỷ-kheo, cái gì theo các ngươi gọi là bị già? – Này các Tỷ-kheo, vợ con là bị già; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị già; dê và cừu là bị già; gà và heo là bị già; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị già; vàng và bạc là bị già. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị già, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già.

Và này các Tỷ-kheo, cái gì theo các ngươi gọi là bị bệnh? – Này các Tỷ-kheo, vợ con là bị bệnh; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị bệnh; dê và cừu là bị bệnh; gà và heo là bị bệnh; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị bệnh. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị bệnh, và người ấy lại nắm giữ tham đắm, mê say chúng, tự mình bị bệnh lại tìm cầu cái bị bệnh.

Và này các Tỷ-kheo, cái gì theo các ngươi gọi là bị chết? – Này các Tỷ-kheo, vợ con là bị chết; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị chết; dê và cừu là bị chết; gà và heo là bị chết; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị chết. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị chết, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị chết lại tìm cầu cái bị chết.

Và này các Tỷ-kheo, cái gì theo các ngươi gọi là bị sầu? – Này các Tỷ-kheo, vợ con là bị sầu; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị sầu; dê và cừu là bị sầu; gà và heo là bị sầu; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị sầu. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị sầu, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị sầu lại tìm cầu cái bị sầu.

Và này các Tỷ-kheo, cái gì theo các ngươi gọi là bị ô nhiễm? – Này các Tỷ-kheo, vợ con là bị ô nhiễm; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị ô nhiễm; dê và cừu là bị ô nhiễm; gà và heo là bị ô nhiễm; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị ô nhiễm; vàng và bạc là bị ô nhiễm. Và này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị ô nhiễm, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là phi Thánh cầu.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Thánh cầu? – Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sanh, tìm cầu cái vô sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị già, tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị bệnh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị bệnh, tìm cầu cái không bệnh …; tự mình bị chết, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị chết, tìm cầu cái bất tử…; tự mình bị sầu, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sầu, tìm cầu cái không sầu …; tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của ô nhiễm, tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, như vậy, gọi là Thánh cầu.

(THÁNH CẦU GIẢI THOÁT)

Này các Tỷ-kheo, Ta cũng vậy, trước khi giác ngộ, khi chưa chứng Chánh Đẳng Giác, khi còn là Bồ-tát, tự mình bị sanh, lại tìm cầu cái bị sanh; tự mình bị già, lại tìm cầu cái bị già; tự mình bị bệnh, lại tìm cầu cái bị bệnh; tự mình bị chết, lại tìm cầu cái bị chết; tự mình bị sầu, lại tìm cầu cái bị sầu; tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm.

Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Tại sao Ta tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh lại tìm cầu cái bị bệnh, tự mình bị chết lại tìm cầu cái bị chết, tự mình bị sầu lại tìm cầu cái bị sầu, tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm? Vậy Ta, tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sanh, hãy tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị già, hãy tìm cầu cái không già …; tự mình bị bệnh, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị bệnh, hãy tìm cầu cái không bệnh …; tự mình bị chết, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị chết, hãy tìm cầu cái bất tử …; tự mình bị sầu, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sầu, hãy tìm cầu cái không sầu …; tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của ô nhiễm, hãy tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn.”

Rồi này các Tỷ-kheo, sau một thời gian, khi Ta còn trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc dầu cha mẹ không bằng lòng, nước mắt đầy mặt, than khóc, Ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

Ta xuất gia như vậy, một người đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ. Ta đến chỗ Alara Kalama ở, khi đến xong liền thưa với Alara Kalama: “Hiền giả Kalama, Ta muốn sống Phạm hạnh trong pháp luật này.” Này các Tỷ-kheo, được nghe nói vậy, Alara Kalama nói với Ta: “Này Tôn giả, hãy sống và an trú. Pháp này là như vậy, khiến kẻ có trí, không bao lâu như vị Bổn sư của mình chỉ dạy, tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú.”

Này các Tỷ-kheo, không bao lâu Ta đã thông suốt pháp ấy một cách mau chóng. Và này các Tỷ-kheo, cho đến vấn đề khua môi và vấn đề phát ngôn mà nói, thời Ta nói giáo lý của kẻ trí và giáo lý của bậc Trưởng lão Thượng tọa, và Ta tự cho rằng Ta như kẻ khác cũng vậy, Ta biết và Ta thấy.

Này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: “Alara Kalama tuyên bố pháp này không phải chỉ vì lòng tin: “Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, Ta mới an trú”. Chắc chắn Alara Kalama biết pháp này, thấy pháp này rồi mới an trú.”

Này các Tỷ-kheo, rồi Ta đi đến chỗ Alara Kalama ở, sau khi đến Ta nói với Alara Kalama: “Hiền giả Kalama, cho đến mức độ nào, ngài tự tri, tự chứng, tự đạt, và tuyên bố pháp này?”

Này các Tỷ-kheo, được nói vậy, Alara Kalama tuyên bố về Vô sở hữu xứ.

Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ: “Không phải chỉ có Alara Kalama có lòng tin, Ta cũng có lòng tin. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có niệm, Ta cũng có niệm. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có định, Ta cũng có định. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy Ta hãy cố gắng chứng cho được pháp mà Alara Kalama tuyên bố: “Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, ta an trú.”

Rồi này các Tỷ-kheo, không bao lâu sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta đi đến chỗ Alara Kalama ở, sau khi đến, Ta nói với Alara Kalama: “Này Hiền giả Kalama, có phải Hiền giả đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy?”

– Vâng, Hiền giả, ta đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy.

– Này Hiền giả, ta cũng tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy.

– Thật lợi ích thay cho chúng ta! Thật khéo lợi ích thay cho chúng ta, khi chúng ta được thấy một đồng Phạm hạnh như Tôn giả! Pháp mà ta tự tri, tự chứng, tự đạt, và tuyên bố, chính pháp ấy Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú. Pháp mà Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, chính pháp ấy ta tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố. Pháp mà ta biết, chính pháp ấy Hiền giả biết. Pháp mà Hiền giả biết, chính pháp ấy ta biết. Ta như thế nào, Hiền giả là như vậy. Hiền giả như thế nào, ta là như vậy. Nay hãy đến đây, Hiền giả, hai chúng ta hãy chăm sóc hội chúng này!

Như vậy, này các Tỷ-kheo, Alara Kalama là Ðạo sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của vị ấy ngang hàng với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng.

Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tự suy nghĩ: “Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ.” Như vậy này các Tỷ-kheo, Ta không tôn kính pháp này, và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi.

Rồi này các Tỷ-kheo, Ta, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ. Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta, khi đến xong Ta nói với Uddaka Ramaputta: “Hiền giả, Ta muốn sống Phạm hạnh trong pháp luật này. Ðược nói vậy, này các Tỷ-kheo, Uddaka Ramaputta nói với Ta: “Này Tôn giả, hãy sống và an trú, pháp này là như vậy, khiến người có trí không bao lâu như vị bổn sư của mình chỉ dạy, tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú.”

Này các Tỷ-kheo, Ta đã thông suốt pháp ấy một cách mau chóng. Và này các Tỷ-kheo, cho đến vấn đề khua môi và vấn đề phát ngôn mà nói, thời Ta nói giáo lý của kẻ trí, và giáo lý của bậc Trưởng lão Thượng tọa, và Ta tự cho rằng Ta như người khác cũng vậy, Ta biết và Ta thấy.

Này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: “Rama tuyên bố pháp này không phải vì lòng tin: “Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, ta mới an trú.” Chắc chắn Rama thấy pháp này, biết pháp này, rồi mới an trú.”

Này các Tỷ-kheo, rồi Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta ở, sau khi đến Ta nói với Uddaka Ramaputta: “Hiền giả Rama, cho đến mức độ nào, ngài tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này?”

Này các Tỷ-kheo được nghe nói vậy, Uddaka Ramaputta tuyên bố về Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ: “Không phải chỉ có Rama mới có lòng tin, Ta cũng có lòng tin; không phải chỉ có Rama mới có tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn; không phải chỉ có Rama mới có niệm, Ta cũng có niệm; không phải chỉ có Rama mới có định, Ta cũng có định; không phải chỉ có Rama mới có tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy Ta hãy cố gắng chứng cho được pháp mà Rama tuyên bố: “Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, tự an trú.”

Rồi này các Tỷ-kheo, không bao lâu sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta ở, sau khi đến, Ta nói với Uddaka Ramaputta:

– Này Hiền giả Rama, có phải Hiền giả đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy?

– Vâng, Hiền giả, ta đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy.

– Này Hiền giả, Ta cũng đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy.

– Thật lợi ích thay cho chúng ta! Thật khéo lợi ích thay cho chúng ta, khi chúng ta được thấy một đồng Phạm hạnh như Tôn giả! Pháp mà ta tự tri tự chứng, tự đạt và tuyên bố, chính pháp ấy Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú. Pháp mà Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, chính pháp ấy ta tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố. Pháp mà ta biết, chính pháp ấy Hiền giả biết. Pháp mà Hiền giả biết, chính pháp ấy ta biết. Ta như thế nào, Hiền giả là như vậy. Hiền giả như thế nào, ta là như vậy. Nay hãy đến đây, Hiền giả, hai chúng ta hãy chăm sóc hội chúng này!

Như vậy, này các Tỷ-kheo, Uddaka Ramaputta là đạo sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của vị ấy ngang hàng với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ: “Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Phi tưởng phi phi tưởng xứ.” Như vậy, này các Tỷ-kheo, Ta không tôn kính pháp ấy và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi.

Này các Tỷ-kheo, Ta, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ, tuần tự du hành tại nước Magadha (Ma Kiệt Đà) và đến tại tụ lạc Uruvela (Ưu-lâu-tần-loa). Tại đây, Ta thấy một địa điểm khả ái, một khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, với một chỗ lội qua dễ dàng khả ái, và xung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng đi khất thực. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tự nghĩ: “Thật là một địa điểm khả ái, một khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, với một chỗ lội qua dễ dàng khả ái, và xung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng đi khất thực. Thật là một chỗ vừa đủ cho một Thiện nam tử tha thiết tinh cần có thể tinh tấn.” Và này các Tỷ-kheo, Ta ngồi xuống tại chỗ ấy và nghĩ: “Thật là vừa đủ để tinh tấn.”

(GIÁC NGỘ)

Rồi này các Tỷ-kheo, Ta tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sanh, tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn, và đã chứng được cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Tự mình bị già, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị già, Ta tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn, và đã chứng được cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Tự mình bị bệnh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị bệnh, Ta tìm cầu cái không bệnh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn, và đã chứng được cái không bệnh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Tự mình bị chết, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị chết, tìm cầu cái không chết, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn, và đã chứng được cái không chết, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Tự mình bị sầu, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sầu, Ta tìm cầu cái không sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn, và đã chứng được cái không sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị ô nhiễm, Ta tìm cầu cái không bị ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn, và đã chứng được cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn, khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Và tri kiến này khởi lên nơi Ta: Sự giải thoát của Ta không bị dao động, nay là đời sống cuối cùng của Ta, không còn sự tái sanh nữa.

Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Ðối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý y tánh Duyên khởi pháp; sự kiện này thật khó thấy; tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự trừ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Nếu nay Ta thuyết pháp mà các người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ não cho Ta, như vậy thật bực mình cho Ta!” Này các Tỷ-kheo, rồi những câu kệ bất khả tư nghì, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên nơi Ta:

Sao Ta nói Chánh pháp,
Ðược chứng ngộ khó khăn?
Những ai còn tham sân,
Khó chứng ngộ pháp này.

Ði ngược dòng, thâm diệu,
Khó thấy, thật tế nhị,
Kẻ ái nhiễm vô minh,
Không thấy được pháp này.

Rồi này các Tỷ-kheo, với những suy tư như vậy, tâm của Ta hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết pháp.

Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ Phạm thiên Sahampati khi biết được tâm tư của Ta; với tâm tư của mình, liền suy nghĩ: “Than ôi, thế giới sẽ tiêu diệt, thế giới sẽ bị hoại vong, nếu tâm của Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết pháp.” Rồi này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati, như một người lực sĩ duỗi cánh tay đang co, hay co cánh tay đang duỗi; cũng vậy, vị ấy biến mất từ thế giới Phạm thiên, và hiện ra trước mặt Ta. Này các Tỷ-kheo, rồi Phạm thiên Sahampati đắp thượng y một bên vai, chắp tay hướng vái Ta và bạch với Ta: “Bạch Thế Tôn, hãy thuyết pháp! Bạch Thiện Thệ, hãy thuyết pháp! Có những chúng sanh ít nhiễm bụi trần sẽ bị nguy hại nếu không được nghe Chánh pháp. Những chúng sanh ấy nếu được nghe, chúng có thể thâm hiểu Chánh pháp.” Này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati nói như vậy. Sau khi nói vậy, lại nói thêm như sau:

Xưa tại Magadha,
Hiện ra pháp bất tịnh,
Pháp do tâm cấu uế,
Do suy tư tác thành.
Hãy mở tung mở rộng,
Cánh cửa bất tử này
Hãy để họ nghe Pháp,
Bậc thanh tịnh chứng ngộ.

Như đứng trên tảng đá,
Trên đỉnh núi cao tột
Có người đứng nhìn xuống,
Ðám chúng sanh quây quần.
Cũng vậy, bậc Thiện Thệ,
Bậc biến nhãn cùng khắp,
Đứng trên ngôi lâu đài,

Xây dựng bằng Chánh Pháp.
Bậc thoát ly sầu muộn,
Nhìn xuống đám quần sanh,
Bị sầu khổ áp bức,
Bị sanh già chi phối.

Ðứng lên vị Đại Hùng,
Bậc chiến thắng chiến trường.
Vị trưởng đoàn lữ khách,
Bậc thoát ly nợ nần.
Hãy đi khắp thế giới,
Bậc Thế Tôn Chánh Giác!
Hãy thuyết vi diệu pháp,
Người nghe sẽ thâm hiểu!

Này các Tỷ-kheo, sau khi biết được lời Phạm thiên yêu cầu, vì lòng từ bi đối với chúng sanh, với Phật nhãn, Ta nhìn quanh thế giới. Này các Tỷ-kheo, với Phật nhãn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng hay hồ sen trắng có một số hoa sen xanh, sen hồng, hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vượt lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước. Có một hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, sống vươn lên tới mặt nước. Có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước đẫm ướt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với Phật nhãn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Và này các Tỷ-kheo, Ta nói lên bài kệ sau đây với Phạm thiên Sahampati:

Cửa bất tử rộng mở,
Cho những ai chịu nghe.
Hãy từ bỏ tín tâm,
Không chân chính của mình.
Tự nghĩ đến phiền toái,
Ta đã không muốn giảng,
Tối thượng vi diệu pháp,
Giữa chúng sanh loài người.
Ôi Phạm Thiên!

Này các Tỷ-kheo, rồi Phạm thiên Sahampati tự nghĩ: “Ta đã tạo cơ hội cho Thế Tôn thuyết pháp”, đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ ấy.

Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tự suy nghĩ: “Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên, ai sẽ mau hiểu Chánh pháp này?” Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tự nghĩ: “Nay có Alara Kalama là bậc trí thức, đa văn, sáng suốt, đã từ lâu sống ít nhiễm bụi đời. Ta hãy thuyết pháp đầu tiên cho Alara Kalama, vị này sẽ mau hiểu Chánh pháp này.” Này các Tỷ-kheo, rồi chư Thiên đến Ta và nói như sau: “Bạch Thế Tôn, Alara Kalama đã mệnh chung bảy ngày rồi.” Rồi tri kiến khởi lên nơi Ta: “Alara Kalama đã mệnh chung bảy ngày rồi.” Này các Tỷ-kheo, Ta nghĩ: “Thật là một thiệt hại lớn cho Alara Kalama: Nếu nghe pháp này, Alara Kalama sẽ mau thâm hiểu.”

Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại nghĩ: “Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên? Ai sẽ mau hiểu Chánh pháp này?” Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại nghĩ: “Nay có Uddaka Ramaputta là bậc tri thức, đa văn, sáng suốt, đã từ lâu sống ít nhiễm bụi đời. Ta hãy thuyết pháp đầu tiên cho Uddaka Ramaputta. Vị này sẽ mau hiểu Chánh pháp này.” Rồi chư Thiên đến Ta và nói như sau: “Bạch Thế Tôn, Uddaka Ramaputta đã mệnh chung ngày hôm qua.” Rồi tri kiến khởi lên nơi Ta: “Uddaka Ramaputta đã mệnh chung hôm qua.” Này các Tỷ-kheo, Ta nghĩ: “Thật là một thiệt hại lớn cho Uddaka Ramaputta. Nếu nghe pháp này, Uddaka Ramaputta sẽ mau thâm hiểu.”

Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ: “Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên? Ai sẽ mau hiểu Chánh pháp này?” Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại nghĩ: “Nhóm năm Tỷ-kheo này đã hầu hạ Ta khi Ta còn nỗ lực tinh cần, nhóm ấy thật giúp ích nhiều. Vậy ta hãy thuyết pháp đầu tiên cho nhóm năm Tỷ-kheo.” Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại nghĩ: “Nay nhóm năm Tỷ-kheo ở tại đâu?” Này các Tỷ-kheo, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy nhóm năm Tỷ-kheo hiện ở Baranasi, tại Isipatana, vườn Lộc Uyển. Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi ở tại Uruvela lâu cho đến khi mãn ý, Ta lên đường đi đến Baranasi (Ba-la-nại, Vārāṇasī).

(KHAI GIẢNG CHÁNH PHÁP)

Này các Tỷ-kheo, một tà mạng ngoại đạo tên là Upaka, đã thấy Ta khi Ta còn đi trên con đường giữa Gaya và cây Bồ-đề. Sau khi thấy, vị ấy nói với Ta: “Các căn của Hiền giả thật sáng suốt, da sắc của Hiền giả thật thanh tịnh, thật thanh khiết. Này Hiền giả, vì mục đích gì, Hiền giả xuất gia? Ai là bậc Ðạo sư của Hiền giả? Hiền giả hoan hỷ thọ trì pháp của ai?”

Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với tà mạng đạo Upaka bài kệ như sau:

Ta, bậc Thắng tất cả
Ta, bậc Nhất thiết trí.
Hết thảy pháp, không nhiễm,
Hết thảy pháp, xả ly.
Ta sống chân giải thoát,
Ðoạn tận mọi khát ái.
Như vậy Ta tự giác,
Còn phải y chỉ ai?

Ta không có Ðạo sư,
Bậc như Ta không có
Giữa thế giới nhơn, thiên,
Không có ai bằng Ta.
Bậc Ứng Cúng trên đời,
Bậc Ðạo Sư vô thượng
Tự mình Chánh Ðẳng Giác,
Ta an tịnh, giải thoát.

Ðể chuyển bánh xe Pháp,
Ta đến thành Kàsi.
Gióng lên trống bất tử,
Trong thế giới mù lòa.

“Như Hiền giả đã tự xưng, Hiền giả xứng đáng là bậc Chiến thắng vô tận.”

Như Ta, bậc Thắng giả,
Những ai chứng lậu tận,
Ác pháp, Ta nhiếp phục,
Do vậy, Ta vô địch.
Này Upaka!

Này các Tỷ-kheo, sau khi được nói vậy, tà mạng ngoại đạo Upaka nói với Ta: “Này Hiền giả, mong rằng sự việc là vậy.” Nói xong, Upaka lắc đầu rồi đi theo một ngã khác.

Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tuần tự đi đến Baranasi, Isipatana, vườn Lộc Uyển, đi đến chỗ nhóm năm Tỷ-kheo ở. Này các Tỷ-kheo, nhóm năm Tỷ-kheo khi thấy Ta từ xa đi đến, đã cùng nhau thỏa thuận như sau: “Này các Hiền giả, nay Sa-môn Gotama đang đi đến. Vị này sống trong sự sung túc, đã từ bỏ tinh cần, đã trở lui đời sống đầy đủ vật chất. Chúng ta chớ có đảnh lễ, chớ có đứng dậy, chớ có tiếp lấy y bát. Hãy đặt một chỗ ngồi, và nếu vị ấy muốn, vị ấy sẽ ngồi.” Này các Tỷ-kheo, nhưng khi Ta đi đến gần, năm Tỷ-kheo ấy không thể giữ đúng điều đã thỏa thuận với nhau. Có người đến đón Ta và cầm lấy y bát, có người sắp đặt chỗ ngồi, có người đem nước rửa chân đến. Nhưng các vị ấy gọi Ta bằng tên với danh từ Hiền giả.

Này các Tỷ-kheo khi Ta nghe nói vậy, Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo, chớ có gọi Ta bằng tên và dùng danh từ Hiền giả. Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Hãy lắng tai, Pháp bất tử đã chứng được, Ta giảng dạy, Ta thuyết pháp. Sống đúng theo lời khuyến giáo, các ngươi không bao lâu, sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt ngay trong hiện tại, mục đích vô thượng của Phạm hạnh mà các thiện nam tử, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, các ngươi sẽ an trú.”

Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, nhóm năm Tỷ-kheo nói với Ta: “Hiền giả Gotama, với nếp sống này, với đạo hạnh này, với khổ hạnh này, Hiền giả đã không chứng được Pháp siêu nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh, thì nay làm thế nào, Hiền giả với nếp sống sung túc, với sự từ bỏ tinh cần, với sự trở lui đời sống vật chất đầy đủ, lại có thể chứng được Pháp siêu nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh?”

Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo:

Này các Tỷ-kheo, Như Lai không sống sung túc, không từ bỏ tinh cần, không trở lui đời sống vật chất đầy đủ. Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Này các Tỷ-kheo, hãy lóng tai, Pháp bất tử đã chứng được, Ta giảng dạy, Ta thuyết pháp. Sống đúng theo lời khuyến giáo này, các ngươi không bao lâu, sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt ngay trong hiện tại mục đích vô thượng của Phạm hạnh mà các thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, các ngươi sẽ an trú.”

Này các Tỷ-kheo, lại lần thứ hai, … lại lần thứ ba, nhóm năm Tỷ-kheo nói với Ta: “Hiền giả Gotama, với nếp sống này, với đạo hạnh này, với khổ hạnh này, Hiền giả đã không chứng được Pháp siêu nhân, tri kiến, thù thắng xứng đáng bậc Thánh, thì nay làm sao, Hiền giả với nếp sống sung túc, với sự từ bỏ tinh cần, với sự trở lui đời sống vật chất đầy đủ, lại có thể chứng được Pháp siêu nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh?”

Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo, từ trước đến nay, các ngươi có chấp nhận là Ta chưa bao giờ nói như vậy chăng?”

Bạch Thế Tôn, chưa bao giờ như vậy.

Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Hãy lắng tai, Pháp bất tử đã chứng được, Ta giảng dạy, Ta thuyết pháp. Sống đúng theo lời khuyến giáo, các ngươi không bao lâu, sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt được ngay trong hiện tại mục đích vô thượng của Phạm hạnh mà các Thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, các ngươi sẽ an trú.

Này các Tỷ-kheo, Ta đã làm cho nhóm năm Tỷ-kheo chấp nhận. Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết giảng cho hai Tỷ-kheo. Ba Tỷ-kheo kia đi khất thực. Ðồ ăn mà ba Tỷ-kheo này khất thực mang về, đủ nuôi sống cho nhóm sáu người. Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết giảng cho ba Tỷ-kheo. Hai Tỷ-kheo kia đi khất thực. Ðồ ăn mà hai Tỷ-kheo này khất thực mang về, đủ nuôi sống cho nhóm sáu người. Này các Tỷ-kheo, chúng năm Tỷ-kheo, sau khi được Ta thuyết giảng, sau khi được Ta khuyến giáo, tự mình bị sanh, sau khi biết được sự nguy hại của cái bị sanh, tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn, thoát khỏi các khổ ách, chứng Niết-bàn, và đã chứng được cái không sanh, vô thượng an ổn, thoát khỏi các khổ ách, chứng Niết-bàn. Tự mình bị già … tìm cầu cái không già …; tự mình bị bệnh …  tìm cầu cái không bệnh …; tự mình bị chết… tìm cầu cái không chết …; tự mình bị sầu … tìm cầu cái không sầu …; tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết được sự nguy hại của cái bị ô nhiễm, tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn, thoát khỏi các khổ ách, chứng Niết-bàn, và đã chứng được cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn, thoát khỏi các khổ ách, chứng Niết-bàn. Tri và kiến khởi lên nơi họ: “Sự giải thoát của chúng ta không bị dao động, đây thức gì được hiện khởi như vậy đều quy là đời sống cuối cùng. Nay không còn tái sanh nữa.”

(NĂM DỤC)

Này các Tỷ-kheo, có năm dục trưởng dưỡng. Thế nào là năm? Các sắc do mắt nhận thức, sắc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Các tiếng do tai nhận thức …; các hương do mũi nhận thức …; các vị do lưỡi nhận thức …; các xúc do thân cảm xúc là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, như vậy, là năm dục trưởng dưỡng.

Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị trói buộc, bị tham đắm, bị mê say bởi năm dục trưởng dưỡng này, không thấy sự nguy hại của chúng, không biết rõ sự xuất ly khỏi chúng, mà thọ dụng chúng, những vị ấy cần phải được hiểu là: “Các người đã rơi vào bất hạnh, đã rơi vào tai họa, đã bị ác ma sử dụng như ý muốn.”

Ví dụ, này các Tỷ-kheo, như một con nai sống trong rừng bị sập bẫy nằm xuống, con nai ấy cần phải được hiểu là: “Nó đã rơi vào bất hạnh, đã rơi vào tai họa, đã bị thợ săn sử dụng như ý muốn. Khi người thợ săn đến, con nai không thể bỏ đi như ý muốn.

Này các Tỷ-kheo, cũng vậy, những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị trói buộc, bị tham đắm, bị mê say bởi năm dục trưởng dưỡng này, không thấy sự nguy hại của chúng, không biết rõ sự xuất ly khỏi chúng, mà thọ dụng chúng, những vị ấy cần phải được hiểu là: “Các người đã rơi vào bất hạnh, đã rơi vào tai họa, đã bị ác ma sử dụng như ý muốn.”

Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không bị trói buộc, không bị tham đắm, không bị mê say bởi năm dục trưởng dưỡng này, thấy sự nguy hại của chúng, biết rõ sự xuất ly khỏi chúng, và thọ dụng chúng, những vị ấy cần phải được hiểu là: “Các người không rơi vào bất hạnh, không rơi vào tai họa, không bị ác ma sử dụng như ý muốn.”

Ví dụ, này các Tỷ-kheo, như một con nai sống trong rừng, không bị sập bẫy phải nằm xuống, con nai ấy cần phải được hiểu là: “Nó không rơi vào bất hạnh, nó không rơi vào tai họa, nó không bị người thợ săn sử dụng như ý muốn.” Khi người thợ săn đến, con nai có thể bỏ đi như ý muốn.

Này các Tỷ-kheo, cũng vậy, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không bị trói buộc, không bị tham đắm, không bị mê say bởi năm dục trưởng dưỡng này, thấy sự nguy hại của chúng, biết rõ sự xuất ly khỏi chúng, và thọ dụng chúng, những vị ấy cần phải được hiểu là: “Các người không rơi vào bất hạnh, không rơi vào tai họa, không bị ác ma sử dụng như ý muốn.”

Chư Tỷ-kheo, ví như con nai sống trong rừng, đi qua đi lại trong rừng, an tâm nó đi, an tâm nó đứng, an tâm nó ngồi, an tâm nó nằm. Tại sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì nó vượt khỏi tầm tay của người thợ săn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc, do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là: một vị đã làm ác ma mù mắt, đã diệt trừ mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt ác ma.

Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là một vị đã làm ác ma mù mắt, đã diệt trừ mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt ác ma.

Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là một vị đã làm ác ma mù mắt, đã diệt trừ mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt ác ma.

Này các Tỷ-kheo, lại nữa, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là một vị đã làm ác ma mù mắt, đã diệt trừ mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt ác ma.

Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tướng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng, Tỷ-kheo nghĩ rằng: “Hư không là vô biên”, chứng và trú Không vô biên xứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là một vị đã làm ác ma mù mắt, đã diệt trừ mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt ác ma.

Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng: “Thức là vô biên”, chứng và trú Thức vô biên xứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là một vị đã làm ác ma mù mắt, đã diệt trừ mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt ác ma.

Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: “Không có vật gì”, chứng và trú Vô sở hữu xứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là một vị đã làm ác ma mù mắt, đã diệt trừ mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt ác ma. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là một vị đã làm ác ma mù mắt, đã diệt trừ mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt ác ma.

Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng định. Sau khi thấy bằng trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn trừ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là một vị đã làm ác ma mù mắt, đã diệt trừ mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt ác ma. Vị ấy đã vượt khỏi mọi triền phược ở đời. An tâm vị ấy đi, an tâm vị ấy đứng, an tâm vị ấy ngồi, an tâm vị ấy nằm. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì vị ấy vượt khỏi tầm tay của ác ma.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.

[HẾT KINH THÁNH CẦU]

KINH KĀLĀMĀ

Như vậy ta nghe.

Một thời, Thế Tôn đang đi du hành giữa dân chúng Kosala, cùng với đại chúng Tỷ-kheo, đi đến Kesaputta, thị trấn của các người Kālāmā.

Bấy giờ, các người Kālāmā ở Kesaputta được nghe: “Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích Ca đã đến Kesaputta”. Tiếng đồn tốt đẹp như sau được truyền đi về Sa-môn Gotama: “Ngài là Thế Tôn, bậc Ứng Cúng A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Sau khi tự thực chứng, Ngài đã giảng dạy chư thiên và loài người, hàng tu sĩ và cư sĩ, vua chúa cùng thường dân; Ngài đã giảng Pháp cao diệu từ chặng đầu, chặng giữa, cho đến chặng cuối; Ngài đã giảng đời sống Phạm hạnh chi tiết và rõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết. Lành thay, nếu được yết kiến một vị Ứng Cúng như vậy.”

Rồi các người Kālāmā ở Kesaputta đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, có người đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có người nói lên với Thế Tôn những lời chào đón thăm hỏi, sau khi nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi ngồi xuống một bên; có người chắp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có người xưng tên và dòng họ rồi ngồi xuống một bên; có người im lặng rồi ngồi xuống một bên.

Sau khi ngồi xuống một bên, các người Kālāmā ở Kesaputta bạch Thế Tôn:

Có một số Sa-môn, Bà-la-môn, bạch Thế Tôn, đi đến Kesaputta, họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của mình, nhưng họ bài xích quan điểm người khác, khinh miệt, chê bai, xuyên tạc. Bạch Thế Tôn, và một số Sa-môn, Bà-la-môn khác cũng đi đến Kesaputta, họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của mình, nhưng họ bài xích quan điểm người khác, khinh miệt, chê bai, xuyên tạc. Đối với họ, bạch Thế Tôn, chúng con có những nghi ngờ phân vân: “Trong những Tôn giả Sa-môn này, ai nói sự thật, ai nói láo?”

Đương nhiên, này các Kālāmā, các ngươi có những nghi ngờ! Đương nhiên, này các Kālāmā, các ngươi có những phân vân! Trong những trường hợp đáng nghi ngờ, các ngươi đương nhiên khởi lên phân vân!

Này các Kālāmā, (1) chớ có tin vì nghe báo cáo, (2) chớ có tin vì nghe truyền thuyết; (3) chớ có tin vì theo truyền thống; (4) chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng; (5) chớ có tin vì lý luận suy diễn; (6) chớ có tin vì diễn giải tương tự; (7) chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; (8) chớ có tin vì phù hợp với định kiến; (9) chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền; (10) chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình.

Nhưng này các Kālāmā, khi nào tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này là bất thiện; các pháp này là đáng chê; các pháp này bị các người có trí chỉ trích; các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau”, thời này Kālāmā, hãy từ bỏ chúng!

Các ngươi nghĩ thế nào, này Kālāmā, lòng tham khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?

– Bất hạnh, bạch Thế Tôn.

Người này có tham, này các Kālāmā, bị tham chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?

– Thưa có, bạch Thế Tôn.

Các ngươi nghĩ thế nào, này các Kālāmā, lòng sân khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?

– Bất hạnh, bạch Thế Tôn.

Người này có sân, này các Kālāmā, bị sân chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?

– Thưa có, bạch Thế Tôn.

Các ngươi nghĩ thế nào, này các Kālāmā, lòng si khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?

– Bất hạnh, bạch Thế Tôn.

Người này có si, này các Kālāmā, bị si chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?

– Thưa có, bạch Thế Tôn.

Các ngươi nghĩ thế nào, này các Kālāmā, các pháp này là thiện hay bất thiện?

– Là bất thiện, bạch Thế Tôn.

Đáng chê hay không đáng chê?

– Có tội, bạch Thế Tôn.

Bị người có trí quở trách hay không bị người có trí quở trách?

– Bị người có trí quở trách, bạch Thế Tôn.

Nếu được thực hiện, được chấp nhận, có đưa đến bất hạnh đau khổ không, hay ở đây, là như thế nào?

– “Được thực hiện, được chấp nhận, bạch Thế Tôn, chúng đưa đến bất hạnh, đau khổ, ở đây, đối với chúng con là vậy.”

Như vậy, này các Kālāmā, điều Ta vừa nói với các ngươi: (1) chớ có tin vì nghe báo cáo, (2) chớ có tin vì nghe truyền thuyết; (3) chớ có tin vì theo truyền thống; (4) chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng; (5) chớ có tin vì lý luận suy diễn; (6) chớ có tin vì diễn giải tương tự; (7) chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; (8) chớ có tin vì phù hợp với định kiến; (9) chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền; (10) chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình.

Nhưng này các Kālāmā, khi nào tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này là bất thiện; các pháp này là đáng chê; các pháp này bị các người có trí quở trách; các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau”, thời này Kālāmā, hãy từ bỏ chúng! Điều đã được nói lên như vậy, chính do duyên như vậy được nói lên.

Này các Kālāmā, (1) chớ có tin vì nghe báo cáo, (2) chớ có tin vì nghe truyền thuyết; (3) chớ có tin vì theo truyền thống; (4) chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng; (5) chớ có tin vì lý luận suy diễn; (6) chớ có tin vì diễn giải tương tự; (7) chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; (8) chớ có tin vì phù hợp với định kiến; (9) chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền; (10) chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình.

Nhưng này các Kālāmā, khi nào tự mình biết như sau: “Các pháp này là thiện; các pháp này là không đáng chê; các pháp này không bị các người có trí chỉ trích; các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến hạnh phúc an lạc,” thời này Kālāmā, hãy tự đạt đến và an trú!

Các ngươi nghĩ thế nào, này các Kālāmā, không tham, khi khởi lên trong nội tâm người nào, như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy?

– Hạnh phúc, bạch Thế Tôn.

Người này không tham, này các Kālāmā, không bị tham chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy hạnh phúc an lạc lâu dài hay không?

– Thưa có, bạch Thế Tôn.

Các ngươi nghĩ thế nào, này các Kālāmā, không sân, khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy? – Hạnh phúc, bạch Thế Tôn.

Người này không sân, này các Kālāmā, không bị sân chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho người ấy hay không?

– Thưa có, bạch Thế Tôn.

Các ngươi nghĩ thế nào, này các Kālāmā, không si khi khởi lên trong nội tâm người nào, như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy?

– Hạnh phúc, bạch Thế Tôn.

Người này không si, này các Kālāmā, không bị si chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có đem lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho người ấy hay không?

– Thưa có, bạch Thế Tôn.

Các ngươi nghĩ thế nào, này các Kālāmā, các pháp này là thiện hay bất thiện?

– Là thiện, bạch Thế Tôn.

Các pháp này là đáng chê hay không đáng chê?

– Không đáng chê, bạch Thế Tôn.

Bị người có trí quở trách hay được người có trí tán thán?

– Được người trí tán thán, bạch Thế Tôn.

Nếu được thực hiện, được chấp nhận, có đưa đến hạnh phúc an lạc không, hay ở đây, là như thế nào?

– Được thực hiện, được chấp nhận, bạch Thế Tôn, chúng đưa đến hạnh phúc, an lạc. Ở đây, đối với chúng con là như vậy.

Này các Kālāmā, (1) chớ có tin vì nghe báo cáo, (2) chớ có tin vì nghe truyền thuyết; (3) chớ có tin vì theo truyền thống; (4) chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng; (5) chớ có tin vì lý luận suy diễn; (6) chớ có tin vì diễn giải tương tự; (7) chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; (8) chớ có tin vì phù hợp với định kiến; (9) chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền; (10) chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình.

Nhưng này các Kālāmā, khi nào tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này là thiện, các pháp này là không có tội, các pháp này được người có trí tán thán, các pháp này nếu được thực hiện, được chấp nhận đưa đến hạnh phúc an lạc”, thời này Kàlàmà, hãy chứng đạt và an trú. Điều đã được nói lên như vậy, chính do duyên như vậy được nói lên.

Này các Kālāmā, vị Thánh đệ tử nào ly tham, ly sân, ly si như vậy, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu hữu với Từ biến mãn một phương. Cũng vậy phương thứ hai; cũng vậy phương thứ ba; cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với Từ, quảng đại, đại hành, vô biên, không hận, không sân.

Vị Thánh đệ tử nào ly tham, ly sân, ly si như vậy, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu hữu với Bi biến mãn một phương. Cũng vậy phương thứ hai; cũng vậy phương thứ ba; cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với Bi, quảng đại, đại hành, vô biên, không hận, không sân.

Vị Thánh đệ tử nào ly tham, ly sân, ly si như vậy, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu hữu với Hỷ biến mãn một phương. Cũng vậy phương thứ hai; cũng vậy phương thứ ba; cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với Hỷ, quảng đại, đại hành, vô biên, không hận, không sân.

Vị Thánh đệ tử nào ly tham, ly sân, ly si như vậy, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu hữu với Xả biến mãn một phương. Cũng vậy phương thứ hai; cũng vậy phương thứ ba; cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với Xả, quảng đại, đại hành, vô biên, không hận, không sân.

Thánh đệ tử ấy, này các Kālāmā, với tâm không oán như vậy, không sân như vậy, không uế nhiễm như vậy, thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại, người ấy đạt được bốn sự an ổn:

1) Nếu có đời sau, nếu có kết quả dị thục các nghiệp thiện ác, sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ sanh lên cõi thiện, cõi trời, cõi đời này. Đây là an ổn thứ nhất vị ấy có được.

2) Nếu không có đời sau, nếu không có kết quả dị thục các nghiệp thiện ác, thời ở đây, trong hiện tại, ta tự sống với tâm không oán, không sân, không phiền não, được an lạc. Đây là an ổn thứ hai vị ấy có được.

3) Nếu việc ác có làm, nhưng ta không có tâm ác đối với ai cả, và nếu ta không làm điều ác, sao ta có thể cảm thọ khổ đau được. Đây là an ổn thứ ba vị ấy có được.

4) Nếu việc ác không có làm, như vậy, cả hai phương diện (do ta làm vô ý hay cố ý), ta quán thấy ta hoàn toàn thanh tịnh. Đây là an ổn thứ tư vị ấy có được.

Thánh đệ tử ấy, này các Kālāmā, với tâm không oán như vậy, với tâm không sân như vậy, với tâm không uế nhiễm như vậy, với tâm thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại, vị có được bốn an ổn này.

Sự việc là như vậy, bạch Thế Tôn! Sự việc là như vậy, bạch Thiện Thệ! Thánh đệ tử ấy, bạch Thế Tôn, với tâm không oán như vậy, với tâm không sân như vậy, với tâm không uế nhiễm như vậy, với tâm thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại, có được bốn an ổn:

1) Nếu có đời sau, nếu có kết quả dị thục các nghiệp thiện ác, sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ được sanh lên cõi thiện, cõi Trời, cõi đời này. Đây là an ổn thứ nhất vị ấy có được.

2) Nếu không có đời sau, nếu không có kết quả dị thục các nghiệp thiện ác, thời ở đây, trong hiện tại, ta tự sống với tâm không oán, không sân, không phiền não, được an lạc. Đây là an ổn thứ hai vị ấy có được.

3) Nếu việc ác có làm, nhưng ta không có tâm ác đối với ai cả, và nếu ta không làm điều ác, sao ta có thể cảm thọ khổ đau được. Đây là an ổn thứ ba vị ấy có được.

4) Nếu việc ác không có làm, như vậy, cả hai phương diện (do ta làm vô ý hay cố ý), ta quán thấy ta hoàn toàn thanh tịnh. Đây là an ổn thứ tư vị ấy có được.

Vị Thánh đệ tử ấy, bạch Thế Tôn, với tâm không oán như vậy, với tâm không sân như vậy, với tâm không uế nhiễm như vậy, với tâm thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại, vị ấy có được bốn an ổn này.

Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng những gì bị quăng ngã xuống, hay trình bày cái gì bị che kín, hay chỉ đường cho người bị lạc hướng, hay cầm đèn sáng vào bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện thuyết giảng. Chúng con nay xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Thế Tôn nhận chúng con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con xin trọn đời quy ngưỡng.

(HẾT KINH KĀLĀMĀ)

ÐẠI KINH THÍ DỤ LÕI CÂY

(Mahāsaropama sutta. MN. 29)

Việt dịch: HT. Thích Minh Châu

Như vậy ta nghe. Một thời Thế Tôn ở tại Rajagaha (Vương Xá), núi Linh Thứu, khi Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) từ bỏ chúng Tăng ra đi không bao lâu. Ở đây, nhân việc Devadatta, Thế Tôn cho gọi các Tỷ-kheo và dạy như sau:

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có Thiện nam tử do lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: “Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể, toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt được.” Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy hoan hỷ, mãn nguyện. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy khen mình, chê người: “Ta được lợi dưỡng như vậy, được danh vọng như vậy. Còn các Tỷ-kheo khác ít được biết đến, ít có uy quyền.” Vị ấy, vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.

Chư Tỷ-kheo, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: “Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này không đạt mục đích mà lõi cây có thể thành tựu.” Cũng vậy, ở đây, này các Tỷ-kheo, có Thiện nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: “Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt.” Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy khen mình, chê người: “Ta được lợi dưỡng như vậy, được danh vọng như vậy, còn các Tỷ-kheo khác ít được biết đến, ít có uy quyền.” Vị ấy vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là vị đã nắm lấy cành lá của Phạm hạnh, vì do vậy, vị ấy đã dừng lại ở đây.

Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có vị thiện nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: “Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt.” Rồi vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này khen mình, chê người. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới đức này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Do thành tựu, giới đức này, vị ấy khen mình chê người: “Ta là người trì giới, theo thiện pháp. Các Tỷ-kheo khác phá giới, theo ác pháp.” Do thành tựu giới đức này, vị ấy trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.

Chư Tỷ-kheo, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, chặt vỏ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: “Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, chặt vỏ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng đó là lõi cây. Và người này không đạt mục đích mà lõi cây có thể thành tựu.” Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình… Do thành tựu giới đức này, vị ấy trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là vị đã nắm lấy vỏ ngoài của Phạm hạnh. Và do vậy, vị ấy đã dừng lại ở đây.

Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có Thiện nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: “Ta bị chìm đắm trong vòng sanh, già, chết, sầu, bi, khổ ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt được.” Rồi vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, khen mình, chê người. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới đức này, vị ấy hoan hỷ, nhưng không tự mãn. Do thành tựu giới đức này, vị ấy không khen mình, chê người. Do thành tựu giới đức này, vị ấy không trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu thiền định. Do thành tựu thiền định này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Do thành tựu thiền định này, vị ấy khen mình chê người: “Ta có thiền định nhất tâm. Các Tỷ-kheo khác không có thiền định, tâm bị phân tán.” Do thành tựu thiền định này, vị ấy trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.

Chư Tỷ-kheo, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, chặt vỏ trong, lấy chúng mang đi, tưởng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy, bèn nói: “Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, chặt vỏ trong, mang đi, tưởng đó là lõi cây. Và người này không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu.” Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình … Do thành tựu thiền định này, vị ấy trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Vì sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.  Chư Tỷ-kheo, như vậy vị ấy được gọi là Tỷ-kheo đã nắm giữ vỏ trong của Phạm hạnh. Và do vậy, vị ấy đã dừng lại ở đây.

Lại nữa, ở đây, có Thiện nam tử, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: “Ta bị chìm đắm trong vòng sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt.” Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, khen mình, chê người. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới đức, vị ấy hoan hỷ, nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu giới đức này khen mình, chê người. Vị ấy không vì thành tựu giới đức này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu thiền định. Vị ấy do thành tựu thiền định này nên hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu Thiền định này khen mình, chê người. Vị ấy không vì thành tựu thiền định này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu tri kiến, vị ấy vì tri kiến này, hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy do tri kiến này, khen mình, chê người. “Ta sống, thấy và biết. Các Tỷ-kheo khác sống, không thấy và không biết.” Vị ấy, do tri kiến này, trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật vị ấy bị đau khổ.

Chư Tỷ-kheo, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, chặt giác cây mang đi, tưởng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: “Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, chặt giác cây và mang đi, tưởng đó là lõi cây. Và người ấy không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, có Thiện nam tử, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình… Vị này, vì tri kiến này nên mê say, tham đắm, phóng dật. Vì sống phóng dật, vị này bị đau khổ. Chư Tỷ-kheo, như vậy vị này gọi là đã nắm giữ giác cây của Phạm hạnh. Và do vậy, vị ấy đã dừng lại ở đây.”

Lại nữa, ở đây, này các Tỷ-kheo, có vị Thiện nam tử, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: “Ta bị chìm đắm trong vòng sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt.” Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này khen mình, chê người. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới đức, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu giới đức này khen mình, chê người. Vị ấy không vì thành tựu giới đức này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu thiền định, vị ấy do thành tựu thiền định này, hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu thiền định này khen mình, chê người. Vị ấy không do thành tựu thiền định này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu tri kiến. Do thành tựu tri kiến này, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu tri kiến này khen mình, chê người. Vị ấy không vì thành tựu tri kiến này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu phi thời gian giải thoát. Này các Tỷ-kheo, sự tình này không thể xảy ra, Tỷ-kheo ấy có thể từ bỏ phi thời gian giải thoát ấy.

Này các Tỷ-kheo, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy chặt lõi cây, mang đi và biết đó là lõi cây. Một người có mắt thấy như vậy, có thể nói: “Người này biết lõi cây, biết giác cây, biết vỏ trong, biết vỏ ngoài, biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy chặt lõi cây, mang đi và tự biết đó là lõi cây. Và người ấy đạt được mục đích mà lõi cây có thể thực hiện.” Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây một Thiện nam tử, vì lòng tin xuất gia, bỏ gia đình, sống không gia đình: “Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong khổ đau, bị chi phối bởi khổ đau. Rất có thể, toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt.” Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này khen mình, chê người. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật. Vị ấy thành tựu giới đức. Vị ấy do thành tựu giới đức này hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy, không do thành tựu giới đức này khen mình, chê người. Vị ấy không do thành tựu giới đức này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu thiền định. Vị ấy do thành tựu thiền định nên hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu thiền định này khen mình, chê người. Vị ấy không do thành tựu thiền định này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu tri kiến. Vị ấy vì thành tựu tri kiến này nên hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu tri kiến này khen mình, chê người. Vị ấy không vì thành tựu tri kiến này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu được phi thời gian giải thoát. Này chư Tỷ-kheo, sự tình này không thể xảy ra, Tỷ-kheo ấy có thể từ bỏ phi thời gian giải thoát ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Phạm hạnh này không phải vì lợi ích, lợi dưỡng, danh vọng, không phải vì lợi ích thành tựu giới đức, không phải vì lợi ích thành tựu thiền định, không phải vì lợi ích tri kiến. Và này các Tỷ-kheo, tâm giải thoát bất động chính là mục đích của Phạm hạnh này, là lõi cây, là mục tiêu cuối cùng của Phạm hạnh.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.

(HẾT ĐẠI KINH THÍ DỤ LÕI CÂY)

ÐẠI KINH PHƯƠNG QUẢNG
(Mahàvedalla sutta, MN. 43)

Như vầy ta nghe.

Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, tịnh xá ông Anathapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Maha Kotthita (Ðại Câu-hy-la), vào buổi chiều, khi thiền định xong, đứng dậy, đi đến chỗ Tôn giả Sariputta ở, sau khi đến nói lên với Tôn giả Sariputta những lời chào đón, hỏi thăm xã giao rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Maha Kotthita nói với Tôn giả Sariputta:

(Tuệ giác)

— Này Hiền giả, liệt tuệ, liệt tuệ (Suppanna) được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi là liệt tuệ?

— Này Hiền giả, vì không tuệ tri, không tuệ tri (Nappajanati), này Hiền giả nên được gọi là liệt tuệ. Không tuệ tri gì? Không tuệ tri: đây là Khổ, không tuệ tri: đây là Khổ tập, không tuệ tri: đây là Khổ diệt, không tuệ tri: đây là Con đường đưa đến Khổ diệt. Vì không tuệ tri, không tuệ tri, này Hiền giả, nên được gọi là liệt tuệ.

– – Lành thay, Hiền giả!

Tôn giả Maha Kotthita hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Sariputta nói, rồi hỏi Tôn giả Sariputta một câu hỏi nữa:

— Này Hiền giả, trí tuệ, trí tuệ được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào là được gọi là trí tuệ?

— Vì có tuệ tri, có tuệ tri, này Hiền giả, nên được gọi là trí tuệ. Có tuệ tri gì? Có tuệ tri: đây là Khổ, có tuệ tri: đây là Khổ tập, có tuệ tri: đây là Khổ diệt, có tuệ tri: đây là Con đường đưa đến Khổ diệt. Vì có tuệ tri, có tuệ tri, này Hiền giả, nên được gọi là trí tuệ.

(Thức)

— Thức, thức, này Hiền giả, được gọi là như vậy, Này Hiền giả, như thế nào được gọi là thức?

— Này Hiền giả, vì thức tri, thức tri, này Hiền giả nên được gọi là có thức. Thức tri gì? Thức tri lạc, thức tri khổ, thức tri bất khổ bất lạc. Vì thức tri, thức tri, này Hiền giả, nên được gọi là có thức.

— Nầy Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy, những pháp này được kết hợp hay không được kết hợp? Có thể chăng, nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần?

— Này Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không kết hợp. Không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần. Này Hiền giả, điều gì tuệ tri được là thức tri được, điều gì thức tri được là tuệ tri được. Do vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không kết hợp, và không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần.

— Này Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy, thế nào là sự sai khác giữa những pháp được kết hợp, không phải không kết hợp này?

— Này Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy, giữa những pháp được kết hợp, không phải không được kết hợp này, trí tuệ cần phải được tu tập (Bhavetabba), còn thức cần phải được liễu tri (Parinneyyam) như vậy là sự sai khác giữa những pháp này.

(Thọ)

— Cảm thọ, cảm thọ, này Hiền giả, được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi là cảm thọ?

— Này Hiền giả, cảm thọ, cảm thọ (Vedeti), nên được gọi là cảm thọ. Và cảm thọ gì? Cảm thọ lạc, cảm thọ khổ, cảm thọ bất khổ bất lạc. Này Hiền giả, cảm thọ, cảm thọ, nên được gọi là cảm thọ.

(Tưởng)

— Này Hiền giả, tưởng, tưởng (Sanna) được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế nào được gọi là tưởng?

— Tưởng tri, tưởng tri (Sanjanati), này Hiền giả, nên được gọi là tưởng, Và tưởng tri gì? Tưởng tri màu xanh, tưởng tri màu vàng, tưởng tri màu đỏ, tưởng tri màu trắng. Tưởng tri, tưởng tri, này Hiền giả, nên được gọi là tưởng.

— Này Hiền giả, thọ như vậy, tưởng như vậy, những pháp này được kết hợp hay không được kết hợp? Có thể chăng, nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần?

— Này Hiền giả, cảm thọ như vậy, tưởng như vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không được kết hợp. Không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần. Này Hiền giả, điều gì cảm thọ được là tưởng tri được, điều gì tưởng tri được là cảm thọ được. Do vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không được kết hợp, và không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần.

(Thắng tri)

— Này Hiền giả, ý thức thanh tịnh, không liên hệ đến năm căn có thể đưa đến gì?

— Này Hiền giả, ý thức thanh tịnh, không liên hệ đến năm căn, có thể đưa đến Hư không vô biên xứ; hư không là vô biên, có thể đưa đến Thức vô biên xứ; thức là vô biên, có thể đưa đến Vô sở hữu xứ, không có sự vật gì.

— Này Hiền giả, pháp gì đưa đến nhờ gì có thể tuệ tri được?

— Này Hiền giả, nhờ tuệ nhãn, pháp được đưa đến có thể tuệ tri.

— Này Hiền giả, trí tuệ có ý nghĩa gì?

— Này Hiền giả, trí tuệ có ý nghĩa là thắng tri (Abhinnattha), có nghĩa là liễu tri (Parinnattha), có nghĩa là đoạn tận (Pahanattha).

(Chánh kiến)

— Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên khiến chánh tri kiến sanh khởi?

— Này Hiền giả, có hai duyên khiến chánh tri kiến sanh khởi: Tiếng của người khác và như lý tác ý. Này Hiền giả, do hai duyên này, chánh tri kiến sanh khởi.

— Này Hiền giả, chánh tri kiến phải được hỗ trợ bởi bao nhiêu chi phần để có tâm giải thoát quả, tâm giải thoát quả công đức, và tuệ giải thoát quả, tuệ giải thoát quả công đức?

— Này Hiền giả, chánh tri kiến phải được hỗ trợ bởi năm chi phần để có tâm giải thoát quả, tâm giải thoát quả công đức, tuệ giải thoát quả và tuệ giải thoát quả công đức. Ở đây, này Hiền giả, chánh tri kiến có giới hỗ trợ, có văn (Suta) hỗ trợ, có thảo luận hỗ trợ, có chỉ (Samatha) hỗ trợ, có quán (Vipassana) hỗ trợ. Này Hiền giả, chánh tri kiến được hỗ trợ bởi năm chi phần này để có tâm giải thoát quả, tâm giải thoát quả công đức, tuệ giải thoát quả và tuệ giải thoát quả công đức.

(Hữu)

— Này Hiền giả, có bao nhiêu hữu (Bhava)?

— Này Hiền giả có ba hữu: dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu.

— Này Hiền giả, như thế nào sự tái sanh trong tương lai được xảy ra?

— Này Hiền giả, bị vô minh ngăn che, bị tham ái trói buộc, các loài hữu tình thích thú chỗ này chỗ kia, như vậy, sự tái sinh trong tương lai được xảy ra.

— Này Hiền giả, như thế nào sự tái sanh trong tương lai không xảy ra?

— Này Hiền giả, vô minh được xả ly, minh khởi, tham ái được đoạn diệt, như vậy sự tái sanh trong tương lai không xảy ra.

(Thiền-na thứ nhất)

— Này Hiền giả, thế nào là Thiền thứ nhất?

— Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Như vậy, này Hiền giả, gọi là Thiền thứ nhất.

— Này Hiền giả, Thiền thứ nhất có bao nhiêu chi phần?

— Này Hiền giả, Thiền thứ nhất có năm chi phần. Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo thành tựu Thiền thứ nhất, có tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm. Này Hiền giả, Thiền thứ nhất có năm chi phần như vậy.

— Này Hiền giả, Thiền thứ nhất từ bỏ bao nhiêu chi phần và thành tựu bao nhiêu chi phần?

– Này Hiền giả, Thiền thứ nhất từ bỏ năm chi phần và thành tựu năm chi phần. Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo thành tựu Thiền thứ nhất từ bỏ tham dục, từ bỏ sân, từ bỏ hôn trầm thụy miên, từ bỏ trạo hối, từ bỏ nghi, thành tựu tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm. Này Hiền giả, như vậy Thiền thứ nhất từ bỏ năm chi phần, và thành tựu năm chi phần.

(Năm căn)

— Này Hiền giả, năm căn này, có cảnh giới khác nhau, có hành giới khác nhau, không có lẫn lộn cảnh giới, hành giới với nhau. Tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả, giữa năm căn này, có cảnh giới sai khác, có hành giới sai khác, không có thọ lãnh cảnh giới, hành giới lẫn nhau, cái gì làm sở y cho chúng, cái gì lãnh thọ cảnh giới, hành giới của chúng?

— Nầy Hiền giả, năm căn này, có cảnh giới sai khác, có hành giới sai khác, không có lãnh thọ cảnh giới, hành giới lẫn nhau, tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả, giữa năm căn này, có cảnh giới sai khác, có hành giới sai khác, không có lẫn lộn cảnh giới, hành giới với nhau, ý làm sở y cho chúng, và ý lãnh thọ cảnh giới và hành giới của chúng.

— Này Hiền giả, năm căn này là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả, năm căn này, do duyên gì mà chúng an trú?

— Này Hiền giả, năm căn này là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả, năm căn này, do duyên tuổi thọ (Ayu) mà chúng an trú.

— Này Hiền giả, tuổi thọ do duyên gì mà an trú?

— Tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an trú.

— Này Hiền giả, hơi nóng do duyên gì mà an trú?

— Hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú.

— Này Hiền giả, nay chúng tôi được biết từ lời nói của Tôn giả Sariputta là tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an trú. Nay chúng tôi lại được biết từ lời nói của Tôn giả Sariputta là hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú. Này Hiền giả, như thế nào, cần phải hiểu ý nghĩa lời nói này?

— Này Hiền giả, ta sẽ cho một ví dụ. Nhờ ví dụ, ở đây, một số người có trí sẽ hiểu ý nghĩa lời nói. Này Hiền giả, ví như khi một cây đèn dầu được thắp sáng, duyên tim đèn, ánh sáng được hiện ra, do duyên ánh sáng, tim đèn được thấy. Cũng vậy này Hiền giả, tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an trú, và hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú.

(Pháp thọ hành)

— Này Hiền giả, những pháp thọ hành (Ayusankhara) này là những pháp được cảm thọ (Vedaniya) này, hay những pháp thọ hành này khác với những pháp được cảm thọ này?

— Này Hiền giả, những pháp thọ hành này không phải là những pháp được cảm thọ này. Này Hiền giả, nếu những pháp thọ hành này là những pháp được cảm thọ này thì không thể nêu rõ sự xuất khởi của vị Tỷ-kheo đã thành tựu Diệt thọ tưởng định. Này Hiền giả, vì rằng những pháp thọ hành khác, những pháp được cảm thọ khác nên có thể nêu rõ sự xuất khởi của vị Tỷ-kheo đã thành tựu Diệt thọ tưởng định.

— Này Hiền giả, đối với thân này, khi nào có bao nhiêu pháp được từ bỏ, thì thân này được nằm xuống, quăng đi, vất bỏ, như một khúc gỗ vô tri?

— Này Hiền giả, đối với thân này, khi nào ba pháp được từ bỏ: Tuổi thọ, hơi nóng và thức, thì thân này nằm xuống, được quăng đi, vất bỏ, như một khúc gỗ vô tri.

— Này Hiền giả, có sự sai khác gì giữa vật chết, mạng chung này với vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt thọ tưởng định?

— Này Hiền giả, vật chết, mạng chung này, thân hành của nó chấm dứt, dừng lại, khẩu hành chấm dứt, dừng lại, tâm hành chấm dứt, dừng lại, tuổi thọ diệt tận, hơi nóng tiêu diệt, các căn bị bại hoại. Còn vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt thọ tưởng định, thì thân hành của vị này được chấm dứt, được dừng lại, khẩu hành được chấm dứt, được dừng lại, tâm hành được chấm dứt, được dừng lại, nhưng tuổi thọ không diệt tận, hơi nóng không tiêu diệt, các căn được sáng suốt. Này Hiền giả, như vậy là sự sai khác giữa vật chết, mạng chung này với vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt thọ tưởng định.

(Tâm giải thoát)

— Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để chứng nhập tâm giải thoát bất khổ bất lạc?

— Này Hiền giả, có bốn duyên để chứng nhập tâm giải thoát bất khổ bất lạc. Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Hiền giả, do bốn duyên này mà chứng nhập tâm giải thoát bất khổ bất lạc.

— Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để chứng nhập vô tướng tâm giải thoát?

— Này Hiền giả, có hai duyên để chứng nhập vô tướng tâm giải thoát: không có tác ý nhất thiết tướng và tác ý vô tướng giới. Này Hiền giả, do hai duyên này mà chứng nhập vô tướng tâm giải thoát.

— Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để an trú vô tướng tâm giải thoát?

— Này Hiền giả, có ba duyên để an trú vô tướng tâm giải thoát: không tác ý nhất thiết tướng, tác ý vô tướng giới, và một sự sửa soạn trước. Này Hiền giả, do ba duyên này mà an trú vô tướng tâm giải thoát.

— Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên để xuất khởi vô tướng tâm giải thoát?

— Này Hiền giả, có hai duyên để xuất khởi vô tướng tâm giải thoát: tác ý nhất thiết tướng và không tác ý vô tướng giới. Này Hiền giả, do hai duyên này mà xuất khởi vô tướng tâm giải thoát.

— Này Hiền giả, vô lượng tâm giải thoát này, vô sở hữu tâm giải thoát này, không tâm giải thoát này và vô tướng tâm giải thoát này, những pháp này nghĩa sai biệt và danh sai biệt, hay nghĩa đồng nhất và danh sai biệt.

— Này Hiền giả, vô lượng tâm giải thoát, vô sở hữu tâm giải thoát, không tâm giải thoát và vô tướng tâm giải thoát này, có một pháp môn, này Hiền giả, do pháp môn này, các pháp ấy nghĩa sai biệt và danh sai biệt. Và này Hiền giả, lại có một pháp môn, do pháp môn này, các pháp ấy có nghĩa đồng nhất và danh sai biệt. Này Hiền giả, thế nào là có pháp môn, do pháp môn này các pháp ấy có nghĩa sai khác và có danh sai khác? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Với tâm câu hữu với bi… với tâm câu hữu với hỷ… an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Như vậy, này Hiền giả, gọi là vô lượng tâm giải thoát.

Và này Hiền giả, thế nào là vô sở hữu tâm giải thoát? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: “Không có vật gì”, chứng và trú Vô sở hữu xứ. Như vậy, này Hiền giả, gọi là Vô sở hữu tâm giải thoát.

Và này Hiền giả, thế nào là không tâm giải thoát? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến chỗ nhà trống và suy nghĩ như sau: “Ðây trống không, không có tự ngã hay không có ngã sở”. Như vậy, này Hiền giả, gọi là không tâm giải thoát.

Và này Hiền giả, thế nào là vô tướng tâm giải thoát? Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo không tác ý với nhất thiết tướng, đạt và an trú vô tướng tâm định. Như vậy, này Hiền giả, gọi là vô tướng tâm giải thoát. Như vậy là có pháp môn và do pháp môn này những pháp ấy nghĩa sai biệt và danh sai biệt.

Và này Hiền giả, thế nào là có pháp môn và do pháp môn này các pháp ấy có nghĩa đồng nhất nhưng danh sai biệt. Tham, này Hiền giả, là nguyên nhân của hạn lượng; sân là nguyên nhân của hạn lượng; si là nguyên nhân của hạn lượng. Ðối với vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc và tham, sân, si này đã được chặt tận gốc như thân cây tala được chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh trong tương lai. Này Hiền giả, khi nào các tâm giải thoát là vô lượng, thì bất động tâm giải thoát được gọi là tối thượng đối với các tâm giải thoát ấy, và bất động tâm giải thoát không có tham, không có sân, không có si.

Tham, này Hiền giả, là một vật gì (chướng ngại), sân là một vật gì (chướng ngại), si là một vật gì (chướng ngại). Ðối với vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc, thì tham, sân, si này đã được chặt tận gốc, như thân cây ta-la được chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh trong tương lai. Này Hiền giả, khi nào các tâm giải thoát là vô sở hữu, thì bất động tâm giải thoát được gọi là tối thượng đối với các tâm giải thoát ấy, và bất động tâm giải thoát ấy không có tham, không có sân, không có si.

Tham, này Hiền giả, là nhân tạo ra tướng, sân là nhân tạo ra tướng, si là nhân tạo ra tướng. Ðối với vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc, thì tham, sân, si này được chặt tận gốc, như thân cây tala được chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh trong tương lai. Này Hiền giả, khi nào các tâm giải thoát là vô tướng, thì bất động tâm giải thoát được gọi là tối thượng đối với các tâm giải thoát ấy, và bất động tâm giải thoát này không có tham, không có sân, không có si. Như vậy, này Hiền giả, là pháp môn này, những pháp ấy là đồng nghĩa nhưng danh sai biệt.

Tôn giả Sariputta thuyết giảng như vậy. Tôn giả Maha Kotthita hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Sariputta dạy.

ÐẠI KINH PHÁP HÀNH

(Mahādhammasamādāna sutta. MN. 46)

Việt dịch: HT. Thích Minh Châu

Như vậy ta nghe.

Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī, tại Jetavana, vườn Anāthapiṇḍika. Ở đây Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: Này các Tỷ-kheo! Bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

Thế Tôn giảng như sau:

Này các Tỷ-kheo, phần lớn các loài hữu tình có dục như thế này, có ước vọng như thế này, có nguyện vọng như thế này: “Ôi, mong rằng các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý được tiêu diệt! Mong rằng các pháp khả ái, khả lạc, khả ý được tăng trưởng!” Này các Tỷ-kheo, dầu cho các loài hữu tình ấy có dục như vậy, có ước vọng như vậy, có nguyện vọng như vậy, nhưng các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý được tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý bị tiêu diệt. Ở đây, này các Tỷ-kheo, các người có biết vì nguyên nhân gì không?

Bạch Thế Tôn, đối với chúng con, các pháp dựa Thế Tôn làm căn bản, hướng Thế Tôn làm lãnh đạo, nương tựa Thế Tôn làm y cứ. Bạch Thế Tôn, lành thay nếu Thế Tôn thuyết giảng cho ý nghĩa này! Sau khi được nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ hành trì.

Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.

Thưa vâng, bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

Thế Tôn giảng như sau:

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có kẻ vô văn phàm phu, không đi đến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không đi đến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân, không biết rõ các pháp nên phục vụ, không biết rõ các pháp không nên phục vụ, không biết rõ các pháp nên thân cận, không biết rõ các pháp không nên thân cận. Vì không biết rõ các pháp nên phục vụ, không biết rõ các pháp không nên phục vụ, không biết rõ các pháp nên thân cận, không biết rõ các pháp không nên thân cận, vị này phục vụ các pháp không nên phục vụ, không phục vụ các pháp nên phục vụ, thân cận các pháp không nên thân cận, không thân cận các pháp nên thân cận. Vị này vì phục vụ các pháp không nên phục vụ, không phục vụ các pháp nên phục vụ, vì thân cận các pháp không nên thân cận, không thân cận các pháp nên thân cận, cho nên các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý bị tiêu diệt. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì người ấy không có trí đối với pháp này.

Và này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử đi đến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân, biết rõ các pháp nên phục vụ, biết rõ các pháp không nên phục vụ, biết rõ các pháp nên thân cận, biết rõ các pháp không nên thân cận. Vì biết rõ các pháp nên phục vụ, biết rõ các pháp không nên phục vụ, biết rõ các pháp nên thân cận, biết rõ các pháp không nên thân cận, vị này phục vụ các pháp nên phục vụ, không phục vụ các pháp không nên phục vụ, thân cận các pháp nên thân cận, không thân cận các pháp không nên thân cận. Vị này vì phục vụ các pháp nên phục vụ, không phục vụ các pháp không nên phục vụ, thân cận các pháp nên thân cận, không thân cận các pháp không nên thân cận, cho nên các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý bị tiêu diệt; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý được tăng trưởng. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy có trí đối với pháp này.

Này các Tỷ-kheo, có bốn pháp hành. Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, có pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo cũng khổ; có pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc; có pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ; có pháp hành hiện tại lạc và tương lai quả báo cũng lạc.

(KẺ VÔ TRÍ)

Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ. Do vô trí với pháp này, do si mê, nên không tuệ tri như chân: “Ðây là pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ.” Do vô trí với pháp này, do si mê, do không tuệ tri như chân, nên phục vụ pháp này, không tránh né pháp này. Vì phục vụ pháp này, vì không tránh né pháp nầy, nên đối với vị này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý bị tiêu diệt. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy không có trí đối với pháp này.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ. Do vô trí với pháp này, do si mê nên không biết như chân: “Ðây là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ.” Do vô trí với pháp này, do si mê, do không tuệ tri như chân, nên phục vụ pháp này, không tránh né pháp này. Vì phục vụ pháp này, vì không tránh né pháp này, nên đối với vị này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý bị tiêu diệt. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy không có trí đối với pháp này.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc. Do vô trí với pháp này, do si mê nên không tuệ tri như chân: “Ðây là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc.” Do vô trí với pháp này, do si mê, do không tuệ tri như chân, nên không phục vụ pháp này, tránh né pháp này. Vì không phục vụ pháp này, tránh né pháp này, nên đối với vị này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý bị tiêu diệt. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy không có trí đối với pháp này?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo cũng lạc. Do vô trí với pháp này, do si mê, nên không tuệ tri như chân: “Ðây là pháp hành hiện tại lạc và tương lai quả báo cũng lạc.” Do vô trí với pháp này, do si mê, do không tuệ tri như chân, nên không phục vụ pháp này, tránh né pháp này. Vì không phục vụ pháp này, vì tránh né pháp này, nên đối với vị này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý bị tiêu diệt. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy không có trí đối với pháp này.

(NGƯỜI TRÍ)

Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ. Do có trí với pháp này, do tâm sáng suốt, vị này tuệ tri như chân: “Pháp hành này hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ.” Do có trí với pháp này…, vị này không phục vụ pháp này, tránh né pháp này. Do không phục vụ pháp này, do tránh né pháp này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý bị tiêu diệt; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý tăng trưởng. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy có trí đối với pháp này.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ. Do có trí với pháp này, do tâm sáng suốt, vị này tuệ tri như chân: “Pháp hành này hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ.” Do có trí với pháp này…, vị này không phục vụ pháp này, tránh né pháp này. Do không phục vụ pháp này, do tránh né pháp này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý bị tiêu diệt; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý tăng trưởng. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy có trí đối với pháp này.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc. Do có trí đối với pháp này, do tâm sáng suốt, vị này tuệ tri như chân: “Pháp này hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc.” Do có trí đối với pháp này…, vị này phục vụ pháp này, không tránh né pháp này. Do phục vụ pháp này, không tránh né pháp này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý bị tiêu diệt; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý tăng trưởng. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy có trí đối với pháp này.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại lạc và tương lai quả báo cũng lạc. Do có trí với pháp này, do tâm sáng suốt, vị này tuệ tri như chân: “Pháp hành này hiện tại lạc và tương lai quả báo cũng lạc.” Do có trí với pháp này…, vị này phục vụ pháp này, không tránh né pháp này. Do phục vụ pháp này, do không tránh né pháp này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý bị tiêu diệt; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý tăng trưởng. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy có trí đối với pháp này.

(BỐN PHÁP HÀNH)

Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo khổ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người với khổ, với ưu, sát sanh, và do duyên sát sanh, cảm thọ khổ ưu. Với khổ, với ưu lấy của không cho, và do duyên lấy của không cho, cảm thọ khổ ưu. Với khổ, với ưu sống theo tà hạnh trong các dục, và do duyên sống theo tà hạnh trong các dục, cảm thọ khổ ưu. Với khổ, với ưu nói lời vọng ngữ, và do duyên nói lời vọng ngữ, cảm thọ khổ ưu. Với khổ, với ưu nói lời hai lưỡi, và do duyên nói lời hai lưỡi, cảm thọ khổ ưu. Với khổ, với ưu, nói lời ác ngữ, và do duyên nói lời ác ngữ, cảm thọ khổ ưu. Với khổ, với ưu, nói lời phù phiếm và do duyên nói lời phù phiếm, cảm thọ khổ ưu. Với khổ, với ưu, có tâm tham ái, và do duyên có tâm tham ái, cảm thọ khổ ưu. Với khổ, với ưu có tâm sân hận, và do duyên có tâm sân hận cảm thọ khổ ưu. Với khổ, với ưu có tà kiến, và do duyên tà kiến cảm thọ khổ ưu. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy, này các Tỷ-kheo, gọi là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo cũng khổ.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người với lạc, với hỷ, sát sanh và do duyên sát sanh, cảm thọ lạc và hỷ. Với lạc, với hỷ, lấy của không cho và do duyên lấy của không cho, cảm thọ lạc và hỷ. Với lạc, với hỷ, sống theo tà hạnh trong các dục, và do duyên sống theo tà hạnh trong các dục, cảm thọ lạc và hỷ. Với lạc, với hỷ, nói lời vọng ngữ, và do duyên nói lời vọng ngữ, cảm thọ lạc và hỷ. Với lạc, với hỷ, nói lời hai lưỡi, và do duyên nói lời hai lưỡi, cảm thọ lạc và hỷ. Với lạc, với hỷ, nói lời ác ngữ và do duyên nói lời ác ngữ, cảm thọ lạc và hỷ. Với lạc, với hỷ, nói lời phù phiếm, và do duyên nói lời phù phiếm, cảm thọ lạc và hỷ. Với lạc, với hỷ, có tâm tham ái và do duyên có tâm tham ái, cảm thọ lạc và hỷ. Với lạc, với hỷ, có tâm sân hận, và do duyên có tâm sân hận, cảm thọ lạc và hỷ. Với lạc, với hỷ, có tà kiến, và do duyên có tà kiến, cảm thọ lạc và hỷ. Vị này sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy, này các Tỷ-kheo, gọi là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người với khổ với ưu, từ bỏ sát sanh, và do duyên từ bỏ sát sanh, cảm thọ khổ ưu. Với khổ, với ưu, từ bỏ lấy của không cho, và do duyên từ bỏ lấy của không cho, cảm thọ khổ ưu. Với khổ, với ưu, từ bỏ tà hạnh trong các dục, và do duyên từ bỏ tà hạnh trong các dục, cảm thọ khổ ưu. Với khổ, với ưu từ bỏ nói lời vọng ngữ và do duyên từ bỏ nói lời vọng ngữ, cảm thọ khổ ưu. Với khổ, với ưu, từ bỏ nói lời hai lưỡi, và do duyên từ bỏ nói lời hai lưỡi, cảm thọ khổ ưu. Với khổ, với ưu, từ bỏ nói lời ác ngữ, và do duyên từ bỏ nói lời ác ngữ, cảm thọ khổ ưu. Với khổ, với ưu, từ bỏ nói lời phù phiếm, và do duyên từ bỏ nói lời phù phiếm, cảm thọ khổ ưu. Với khổ, với ưu, từ bỏ tâm tham ái, và do duyên từ bỏ tâm tham ái, cảm thọ khổ ưu. Với khổ, với ưu, từ bỏ tâm sân hận, và do duyên từ bỏ tâm sân hận, cảm thọ khổ ưu. Với khổ, với ưu, từ bỏ tà kiến, và do duyên từ bỏ tà kiến, cảm thọ khổ ưu. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Như vậy này các Tỷ-kheo, gọi là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo lạc? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người với lạc, với hỷ, từ bỏ sát sanh và do duyên từ bỏ sát sanh, cảm thọ lạc và hỷ. Với lạc, với hỷ, từ bỏ lấy của không cho, và do duyên từ bỏ lấy của không cho, cảm thọ lạc và hỷ. Với lạc, với hỷ, từ bỏ các tà hạnh trong các dục, và do duyên từ bỏ các tà hạnh trong các dục, cảm thọ lạc và hỷ. Với lạc, với hỷ, từ bỏ nói lời vọng ngữ, và do duyên từ bỏ nói lời vọng ngữ, cảm thọ lạc và hỷ. Với lạc, với hỷ, từ bỏ nói lời hai lưỡi, và do duyên từ bỏ nói lời hai lưỡi, cảm thọ lạc và hỷ. Với lạc, với hỷ, từ bỏ ác ngữ, và do duyên từ bỏ nói lời ác ngữ, cảm thọ lạc và hỷ. Với lạc, với hỷ, từ bỏ nói lời phù phiếm, và do duyên từ bỏ nói lời phù phiếm, cảm thọ lạc và hỷ. Với lạc, với hỷ, không có tham ái, và do duyên không có tham ái, cảm thọ lạc và hỷ. Với lạc, với hỷ, không có sân tâm và do duyên không có sân tâm, cảm thọ lạc và hỷ. Với lạc, với hỷ, có chánh kiến và do duyên chánh kiến, cảm thọ lạc và hỷ. Vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Như vậy, này các Tỷ-kheo, gọi là pháp hành hiện tại lạc và tương lai quả báo cũng lạc.

(CÁC VÍ DỤ VỀ 4 PHÁP HÀNH)

Này các Tỷ-kheo, ví như trái bí đắng có tẩm thuốc độc. Rồi một người đến muốn sống, muốn không chết, ưa lạc, hiềm ghét khổ, và có người nói với người ấy như sau: “Này bạn, trái bí đắng này có tẩm thuốc độc, nếu bạn muốn, hãy ăn. Trong khi ăn, bạn không được thích thú về sắc, về hương, về vị. Sau khi ăn, bạn có thể đi đến chết hay đau khổ gần như chết.” Người ấy có thể ăn không có suy nghĩ, không có từ bỏ. Trong khi ăn, người ấy không được thích thú về sắc, về hương, về vị. Sau khi ăn, người ấy bị chết, hay bị đau khổ gần như chết. Này các Tỷ-kheo, Ta nói pháp hành này giống như ví dụ ấy, tức là pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ.

Này các Tỷ-kheo, ví như một bình đồng đựng nước uống, có sắc, có hương, có vị, và nước uống ấy có tẩm thuốc độc. Rồi một người đến, muốn sống, muốn không chết, muốn ưa lạc, hiềm ghét khổ. Và có người nói với người ấy như sau: “Này bạn, bình đồng đựng nước uống này, có sắc, có hương, có vị, và nước uống ấy có tẩm thuốc độc. Nếu bạn muốn, hãy uống. Trong khi uống, bạn sẽ được thích thú về sắc, về hương, về vị. Sau khi uống, bạn có thể đi đến chết hay đau khổ gần như chết.” Người kia có thể uống, không suy nghĩ, không từ bỏ. Trong khi uống, người ấy được thích thú về sắc, về hương, về vị. Sau khi uống, người ấy có thể đi đến chết hay đau khổ gần như chết. Này các Tỷ-kheo, Ta nói pháp hành này giống như ví dụ ấy, tức là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ.

Này các Tỷ-kheo, ví như nước đái quỷ được trộn nhiều loại thuốc. Rồi có người đi đến, bị bệnh hoàng đản, và có người nói với người đó như sau: “Này bạn, nước đái quỷ này được trộn với nhiều loại thuốc. Nếu bạn muốn, hãy uống. Trong khi uống, bạn không được thích thú về sắc, về hương, về vị. Nhưng sau khi uống, bạn sẽ được an lạc.” Người ấy có thể uống, sau khi suy nghĩ, không có từ bỏ. Trong khi uống, người ấy không được thích thú về sắc, về hương, về vị. Nhưng sau khi uống, người ấy được an lạc. Này các Tỷ-kheo, Ta nói pháp hành này giống như ví dụ ấy, tức là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc.

Này các Tỷ-kheo, ví như lạc, mật, thục tô và đường trộn lẫn với nhau. Rồi có người đi đến bị bệnh kiết lỵ. Và có người nói với người ấy như sau: “Này bạn, đây là lạc, mật, thục tô và đường trộn lẫn với nhau. Nếu bạn muốn, hãy uống. Trong khi uống, bạn sẽ được thích thú về sắc, về hương, về vị. Sau khi uống, bạn sẽ được an lạc.” Người kia có thể uống, sau khi suy nghĩ, không có từ bỏ. Trong khi uống, người kia được thích thú về sắc, về hương, về vị. Sau khi uống, người kia được an lạc. Này các Tỷ-kheo, Ta nói pháp hành này giống như ví dụ ấy, tức là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo cũng lạc.

Này các Tỷ-kheo, ví như trong tháng cuối mùa mưa, vào mùa thu, mùa gặt hái, khí bầu trời quang đãng, không có mây, và mặt trời mọc lên giữa bầu trời, phá sạch hắc ám khắp cả hư không, và chói sáng, hực sáng và rực sáng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo cũng lạc này, sau khi phá sạch các dị thuyết của các Sa-môn, Bà-la-môn tầm thường, chói sáng, hực sáng và rực sáng.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.

(HẾT ĐẠI KINH PHÁP HÀNH)

KINH VƯƠNG TỬ VÔ ÚY
(Abhayarājakumāra sutta. MN. 58)

Như vậy ta nghe.

Một thời Thế Tôn ở tại Rajagaha, Veluvana, Kalandakanivapa (chỗ nuôi các con sóc).

Rồi Vương tử Abhaya (Vô Úy) đi đến Nigantha Nataputta, sau khi đến đảnh lễ Nigantha Nataputta rồi ngồi xuống một bên. Nigantha Nataputta nói với Vương tử Abhaya:

– Này Vương tử, Vương tử hãy đi đến luận chiến với Sa-môn Gotama, và nhờ vậy tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi cho Vương tử: “Sa-môn Gotama có thần lực như vậy, có uy lực như vậy, đã bị Vương tử Abhaya luận chiến.”

– Thưa Tôn giả, làm thế nào con có thể luận chiến với Sa-môn Gotama, vị có thần lực như vậy, có uy lực như vậy?

– Này Vương tử, hãy đi đến Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy nói với Sa-môn Gotama như sau: “Bạch Thế Tôn, Như Lai có thể nói lời nói, do lời nói ấy, những người khác không ưa, không thích chăng?” Nếu Sa-môn Gotama được Vương tử hỏi như vậy và trả lời như sau: “Này Vương tử, Như Lai có thể nói lời nói, do lời nói ấy, những người khác không ưa, không thích”, thời Vương tử hãy nói với Sa-môn Gotama: “Bạch Thế Tôn, nếu xử sự như vậy thời có gì sai khác giữa kẻ phàm phu và Ngài? Kẻ phàm phu có thể nói lời nói, do lời nói ấy, những người khác không ưa, không thích.” Còn nếu Sa-môn Gotama được Vương tử hỏi như vậy và trả lời như sau: “Này Vương tử, Như Lai không có thể nói lời nói, do lời nói ấy, những người khác không ưa, không thích”, thời Vương tử hãy nói với Sa-môn Gotama: “Bạch Thế Tôn, nếu xử sự như vậy, thời vì sao Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) được Ngài trả lời như sau: “Devadatta phải đọa vào đọa xứ, Devadatta phải đọa vào địa ngục, Devadatta phải đọa trong một kiếp, Devadatta không thể nào cứu chữa được?” Và do Ngài nói những lời như vậy, Devadatta phẫn nộ, không hoan hỷ”. Này Vương tử, Sa-môn Gotama khi bị Vương tử hỏi câu hỏi hai móc như vậy, sẽ không có thể nhả ra, cũng không có thể nuốt vào. Ví như một móc sắt bị móc vào cổ họng một người nào, người ấy không có thể nhả ra, cũng không có thể nuốt vào được. Cũng vậy, này Vương tử, Sa-môn Gotama khi bị Vương tử hỏi câu hỏi hai móc như vậy, sẽ không có thể nhả ra, cũng không có thể nuốt vào.

– Thưa vâng Tôn giả. Vương tử Abhaya vâng đáp Nigantha Nataputta, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Nigantha Nataputta, rồi đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, liền đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Vương tử Abhaya đang ngồi một bên, nhìn mặt trời rồi suy nghĩ: “Hôm nay, không phải thời để luận chiến với Sa-môn Gotama. Ngày mai, ta sẽ luận chiến với Sa-môn Gotama tại nhà của ta”, liền bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, ngày mai mong Thế Tôn nhận lời dùng cơm, cùng ba Tỷ-kheo khác với Ngài là người thứ tư.”

Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi Vương tử Abhaya, sau khi biết Thế Tôn đã nhận lời, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.

Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã mãn, vào buổi sáng đắp y, cầm theo y bát, đi đến chỗ của Vương tử Abhaya, sau khi đến liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi Vương tử Abhaya tự tay cung phụng Thế Tôn với những món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm. Vương tử Abhaya chờ cho Thế Tôn sau khi đã dùng xong, tay đã rời khỏi bát, liền lấy một ghế thấp khác rồi ngồi xuống một bên. Vương tử Abhaya bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Như Lai có thể nói những lời, do những lời ấy người khác không ưa, không thích chăng?

– Này Vương tử, phải chăng ở đây, câu hỏi có dụng ý một chiều?

– Bạch Thế Tôn, các vị Nigantha đã bị bại ở đây rồi!

– Này Vương tử, vì sao Vương tử lại nói như vầy: “Bạch Thế Tôn, các vị Nigantha đã bị bại ở đây rồi.”?

– Bạch Thế Tôn, ở đây, con đi đến Nigantha Nataputta, sau khi đến con đảnh lễ Nigantha Nataputta rồi ngồi xuống một bên. Bạch Thế Tôn, Nigantha Nataputta nói với con đang ngồi một bên: “Này Vương tử, Vương tử hãy đi đến luận chiến với Sa-môn Gotama, và nhờ vậy tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi cho Vương tử: “Sa-môn Gotama có thần lực như vậy, có uy lực như vậy, đã bị Vương tử Abhaya luận chiến.” Bạch Thế Tôn, khi được nói vậy, con thưa với Nigantha Nataputta: “Thưa Tôn giả, nhưng làm thế nào, ta có thể luận chiến với Sa-môn Gotama, một vị có thần lực như vậy, có uy lực như vậy?”. Nigantha Nataputta nói: “Này Vương tử, hãy đi đến Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy nói với Sa-môn Gotama như sau: “Bạch Thế Tôn, Như Lai có thể nói lời nói, do lời nói ấy, những người khác không ưa, không thích chăng?” Nếu Sa-môn Gotama được Vương tử hỏi như vậy và trả lời như sau: “Này Vương tử, Như Lai có thể nói lời nói, do lời nói ấy, những người khác không ưa, không thích.”, thời Vương tử hãy nói với Sa-môn Gotama: “Bạch Thế Tôn, nếu xử sự như vậy, thời có gì sai khác giữa kẻ phàm phu với Ngài? Kẻ phàm phu có thể nói lời nói, do lời nói ấy, những người khác không ưa, không thích.” Còn nếu Sa-môn Gotama được Vương tử hỏi như vậy và trả lời như sau: “Này Vương tử, Như Lai không có thể nói lời nói, do lời nói ấy những người khác không ưa, không thích”, thời Vương tử hãy nói với Sa-môn Gotama: “Bạch Thế Tôn, nếu xử sự như vậy, thời vì sao Devadatta được Ngài trả lời như sau: “Devadatta phải đọa vào đọa xứ, Devadatta phải đọa vào địa ngục, Devadatta phải đọa trong một kiếp, Devadatta không thể nào cứu chữa được? Và vì Ngài nói những lời như vậy, Devadatta phẫn nộ, không hoan hỷ.” Này Vương tử, Sa-môn Gotama, khi bị Vương tử hỏi câu hỏi hai móc như vậy, sẽ không thể nhả ra, cũng không thể nuốt vào. Ví như một móc sắt bị mắc vào cổ họng của một người nào, người ấy không có thể nhả ra, cũng không có thể nuốt vào được. Cũng vậy, này Vương tử, Sa-môn Gotama, khi bị Vương tử hỏi câu hỏi hai móc như vậy, sẽ không có thể nhả ra, cũng không có thể nuốt vào”.

Lúc bấy giờ, có đứa con nít ngây thơ nằm giữa trên đầu gối của Vương tử Abhaya. Rồi Thế Tôn nói với Vương tử Abhaya:

– Này Vương tử, Vương tử nghĩ thế nào? Nếu đứa con nít này, do sự vô ý của Vương tử, hay do sự vô ý của người vú hầu, thọc một cái que hay nuốt một hòn đá vào trong miệng, vậy Vương tử phải làm gì?

– Bạch Thế Tôn, con phải móc cho ra. Bạch Thế Tôn, nếu con không thể móc ra lập tức, thời với tay trái con nắm đầu nó lại, với tay phải lấy ngón tay làm như cái móc, con sẽ móc cho vật ấy ra, dầu có phải chảy máu. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, vì con có lòng thương tưởng đứa trẻ.

– Cũng vậy, này Vương tử, lời nói nào Như Lai biết không như thật, không như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, thời Như Lai không nói lời nói ấy.

– Lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, thời Như Lai không nói lời nói ấy.

– Và lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, Như Lai ở đây biết thời giải thích lời nói ấy.

– Lời nói nào Như Lai biết là không như thật, không như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa thích, Như Lại không nói lời nói ấy.

– Lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa và thích, Như Lai không nói lời nói ấy.

– Và lời nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa và thích, ở đây, Như Lai biết thời giải thích lời nói ấy.

Vì sao vậy? Này Vương tử, Như Lai có lòng thương tưởng đối với các loài hữu tình.

– Bạch Thế Tôn, những người có trí như Sát-đế-lị, Bà-la-môn, Gia chủ, Sa-môn, sau khi soạn sẵn câu hỏi, đến Như Lai và hỏi. Bạch Thế Tôn, không hiểu Thế Tôn có suy nghĩ trước trong trí như sau: “Nếu có những ai đến Ta và hỏi như vậy, được hỏi như vậy, Ta sẽ trả lời như vậy”, hay Như Lai trả lời ngay tại chỗ?

– Này Vương tử, nay ở đây Ta sẽ hỏi Vương tử, nếu Vương tử hoan hỷ, hãy trả lời câu hỏi ấy. Này Vương tử, Vương tử nghĩ như thế nào? Vương tử có giỏi về các bộ phận sai biệt một cái xe không?

– “Thưa vâng, bạch Thế Tôn, con có giỏi về các bộ phận sai biệt một cái xe.”

– Này Vương tử, Vương tử nghĩ thế nào, nếu có những người đến Vương tử và hỏi như sau: “Bộ phận này của cái xe tên gọi là gì?” không hiểu Vương tử có suy nghĩ trước trong trí như sau: “Nếu có những ai đến ta, và hỏi ta như vậy, ta sẽ trả lời cho họ như vậy”, hay là Vương tử trả lời ngay tại chỗ?

– Bạch Thế Tôn, vì con là người đánh xe nổi tiếng, rất giỏi về các bộ phận sai biệt trong một cái xe nên con sẽ trả lời ngay tại chỗ.

Cũng vậy, này Vương tử, những Sát-đế-lỵ có trí, những Bà-la-môn có trí, những Gia chủ có trí, những Sa-môn có trí này, sau khi soạn sẵn câu hỏi, đến Như Lai và hỏi, Như Lai sẽ trả lời ngay tại chỗ. Vì sao vậy? Này Vương tử, pháp giới đã được Như Lai khéo biết. Và vì Như Lai khéo biết pháp giới nên Như Lai trả lời ngay tại chỗ.

Khi được nói vậy, Vương tử Abhaya bạch Thế Tôn: “Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ đi lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày. Nay con quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.”

(HẾT KINH VƯƠNG TỬ VÔ ÚY)

 

KINH RATTHAPĀLA

(Ratthapāla sutta. MN. 82)

Việt dịch: HT. Thích Minh Châu

Như vậy ta nghe.

Một thời Thế Tôn du hành ở giữa dân chúng Kuru, cùng với đại chúng Tỷ-kheo, và đi đến một thị trấn của dân chúng Kuru tên là Thullakotthita.

Các Bà-la-môn, gia chủ ở Thullakotthita được nghe như sau: “Sa-môn Gotama là Thích tử, Tôn giả xuất gia từ dòng họ Sakya, du hành giữa dân chúng Kuru nay đã đến Thullakotthita với đại chúng Tỷ-kheo. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được nói lên về Tôn giả Gotama: “Ðây là đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Ngài với thắng trí, tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Ma giới, Phạm Thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và Người. Khi đã chứng ngộ, Ngài còn tuyên bố sự chứng ngộ ấy cho người khác. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa đầy đủ, và giới thiệu đời sống Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ trong sạch”. Tốt đẹp thay, sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy.”

Rồi các Bà-la-môn, gia chủ ở Thullakotthita đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, một số người đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Một số người nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Thế Tôn, và sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Một số người chấp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Một số người xưng tên và dòng họ rồi ngồi xuống một bên. Một số người yên lặng ngồi xuống một bên.

Rồi Thế Tôn với pháp thoại khích lệ, làm cho thích thú, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các vị Bà-la-môn, gia chủ ở Thullakotthita.

Lúc bấy giờ, một Thiện nam tử tên là Ratthapāla, con trai một gia đình thượng tộc ở chính tại Thullakotthita ấy, đang ngồi trong hội chúng này. Rồi Thiện nam tử Ratthapāla suy nghĩ như sau: “Như ta được hiểu lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống tại gia đình thật không dễ gì thực hành Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, hoàn toàn trong sạch, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.”

Rồi các Bà-la-môn, gia chủ ở Thullakotthita, sau khi được Thế Tôn với pháp thoại khích lệ, làm cho thích thú, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, sau khi hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.

Thiện nam tử Ratthapāla, sau khi các Bà-la-môn, gia chủ ra đi không bao lâu, liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thiện nam tử Ratthapāla bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, như con được hiểu lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống tại gia đình thật không dễ gì thực hành Phạm hạnh, hoàn toàn viên mãn, hoàn toàn trong sạch, trắng bạch như vỏ ốc. Con muốn, bạch Thế Tôn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn cho con xuất gia dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn, cho con thọ đại giới.

– Nhưng này Ratthapāla, ngươi có được cha mẹ bằng lòng cho ngươi xuất gia chưa?

– Bạch Thế Tôn, con chưa được cha mẹ bằng lòng cho con xuất gia.

– Này Ratthapāla, Như Lai không có cho ai xuất gia nếu không được cha mẹ người ấy bằng lòng.

– Như vậy, bạch Thế Tôn, con sẽ làm những gì cần thiết để cha mẹ bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

Rồi Thiện nam tử Ratthapāla từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, rồi ra đi, đi đến cha mẹ, sau khi đến liền thưa với cha mẹ:

– Thưa mẹ và cha, như con được hiểu lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống tại gia đình thật không dễ gì thực hành Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, hoàn toàn trong sạch, trắng bạch như vỏ ốc. Con muốn cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Hãy bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

Khi được nghe nói vậy, cha mẹ Thiện nam tử Ratthapāla nói với Thiện nam tử Ratthapāla:

– Này con thân yêu Ratthapāla, con là đứa con độc nhất của mẹ cha, khả ái, dễ thương, được sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc. Này con thân yêu Ratthapāla, con không biết gì về đau khổ. Này con thân yêu Ratthapāla, hãy đến ăn, hãy uống và hãy vui chơi. Ăn, uống, vui chơi, con có thể thụ hưởng các ái dục và sung sướng làm các phước đức. Chúng ta không bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Nếu con có chết, chúng ta còn không muốn không có mặt con, huống nay con còn sống, chúng ta lại bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình!

Lần thứ hai… rồi đến lần thứ ba, Thiện nam tử Ratthapāla cầu xin cha mẹ xuất gia, nhưng cha mẹ của Tôn giả không bằng lòng.

Rồi Thiện nam tử Ratthapāla không được cha mẹ cho xuất gia, liền ngay tại chỗ ấy nằm xuống trên đất trần và nói:

– Ta sẽ chết ở đây, hay được xuất gia!

Rồi cha mẹ Thiện nam tử Ratthapāla nói với Thiện nam tử Ratthapāla:

– Này con thân yêu Ratthapāla, con là đứa con độc nhất của cha mẹ, khả ái, dễ thương, được sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc. Này con thân yêu Ratthapāla, con không biết gì về đau khổ. Hãy đứng dậy, này con thân yêu Ratthapāla, hãy ăn, hãy uống, hãy vui chơi. Ăn, uống, vui chơi, con có thể thụ hưởng các ái dục và sung sướng làm các phước đức. Chúng ta không bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

Khi được nghe nói vậy, Thiện nam tử Ratthapāla giữ im lặng. Lần thứ hai … Lần thứ ba, lần thứ ba, Thiện nam tử Ratthapāla giữ im lặng. Rồi cha mẹ Thiện nam tử Ratthapāla liền đi đến các thân hữu của Thiện nam tử Ratthapāla, và nói:

– Này các Thân hữu, Thiện nam tử Ratthapāla nằm trên đất trần và nói: “Ở đây, ta sẽ chết, hay được xuất gia!” Này các con thân mến, hãy đi đến Thiện nam tử Ratthapāla, sau khi đến hãy nói với Thiện nam tử Ratthapāla: “Này bạn Ratthapāla, bạn là con độc nhất của cha mẹ bạn, khả ái, dễ thương, được sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc. Này bạn Ratthapāla, bạn không biết gì về đau khổ. Hãy đứng dậy, bạn Ratthapāla, hãy ăn, hãy uống, hãy vui chơi. Ăn, uống, vui chơi, bạn có thể thụ hưởng các ái dục và sung sướng làm phước đức, cha mẹ bạn không bằng lòng cho bạn được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Nếu bạn có chết đi, cha mẹ bạn còn không muốn không có mặt bạn, huống nay bạn còn sống, cha mẹ bạn lại bằng lòng cho bạn được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình!”

Rồi những người bạn của Thiện nam tử Ratthapāla vâng theo lời cha mẹ của Thiện nam tử Ratthapāla, đi đến chỗ Thiện nam tử Ratthapāla, sau khi đến liền nói:

– Này bạn Ratthapāla, bạn là con độc nhất của cha mẹ bạn, khả ái, dễ thương, được sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc. Này bạn Ratthapāla, bạn không biết gì về đau khổ. Hãy đứng dậy, bạn Ratthapāla, hãy ăn, hãy uống, hãy vui chơi. Ăn, uống, vui chơi, bạn có thể thụ hưởng các ái dục và sung sướng làm các phước đức. Cha mẹ bạn không bằng lòng cho phép bạn được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Nếu bạn có chết đi, cha mẹ bạn còn không muốn không có mặt bạn, huống nay bạn còn sống, cha mẹ bạn lại bằng lòng cho bạn được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình!

Khi được nghe nói vậy, Thiện nam tử Ratthapāla giữ im lặng.  Lần thứ hai … Lần thứ ba, những người bạn của Thiện nam tử Ratthapāla thuyết phục Thiện nam tử Ratthapāla. Thiện nam tử Ratthapāla vẫn giữ im lặng.

Rồi các thân hữu của Thiện nam tử Ratthapāla đi đến cha mẹ Thiện nam tử Ratthapāla, sau khi đến liền thưa:

– Thưa ông và bà, Thiện nam tử Ratthapāla đang nằm xuống trên đất trần kia và nói: “Ở đây, ta sẽ chết, hay được xuất gia!” Nếu ông bà không bằng lòng cho Thiện nam tử Ratthapāla xuất gia, thời Ratthapāla sẽ chết ở tại chỗ ấy. Còn nếu ông bà bằng lòng cho Thiện nam tử Ratthapāla xuất gia, thời ông bà còn có thể thấy Ratthapāla sau khi xuất gia. Nếu Thiện nam tử Ratthapāla không cảm thấy hoan hỷ trong khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, thời Ratthapāla không còn con đường đi nào khác hơn, Ratthapāla sẽ trở lại ở đây. Hãy bằng lòng cho phép Thiện nam tử Ratthapāla xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

Rồi cha mẹ Thiện nam tử Ratthapāla nói với các thân hữu của Thiện nam tử Ratthapāla:

– Này các con thân mến, chúng ta bằng lòng cho phép Thiện nam tử Ratthapāla xuất gia, nhưng sau khi xuất gia, cần phải trở về thăm cha mẹ.

Rồi những thân hữu của thiện nam tử Ratthapāla, đi đến Thiện nam tử Ratthapāla, sau khi đến, liền nói:

– Này bạn Ratthapāla, hãy đứng dậy, ăn, uống, và vui chơi. Ăn, uống, vui chơi, bạn có thể thụ hưởng các ái dục, và sung sướng làm các phước đức. Cha mẹ bạn đã bằng lòng cho phép xuất gia, và sau khi xuất gia, cần phải về thăm cha mẹ.

Rồi Thiện nam tử Ratthapāla, sau khi đứng dậy, sau khi lấy lại sức lực, liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Thiện nam tử Ratthapāla bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, con đã được mẹ cha bằng lòng cho phép con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Thế Tôn hãy xuất gia cho con.

Và Thiện nam tử Ratthapāla được xuất gia dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn và được thọ đại giới. Rồi Thế Tôn, sau khi Tôn giả Ratthapāla thọ đại giới không bao lâu, nửa tháng sau khi thọ đại giới, sau khi ở tại Thullakotthita cho đến khi thỏa mãn, liền khởi hành đi đến Sāvatthī, tuần tự du hành và đến Sāvatthī. Ở đấy, Thế Tôn trú tại Sāvatthī, Jetavana, tu viện Anāthapiṇḍika.

Rồi Tôn giả Ratthapāla sống một mình, viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh tấn, không bao lâu đạt được mục đích mà các Thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến, tức là tự chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô thượng cứu cánh Phạm hạnh. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn phải trở lui ở đời này nữa”. Tôn giả Ratthapāla trở thành một vị A-la-hán nữa.

Rồi Tôn giả Ratthapāla đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ratthapāla bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, con muốn đi thăm cha mẹ, nếu Thế Tôn cho phép con.

Thế Tôn với tâm của mình tìm hiểu tâm tư Tôn giả Ratthapāla. Khi Thế Tôn được biết thiện nam tử Ratthapāla không thể từ bỏ tu học, trở lại hoàn tục, liền nói với Tôn giả Ratthapāla:

– Này Ratthapāla, nay ngươi hãy làm những gì ngươi nghĩ là hợp thời.

Rồi Tôn giả Ratthapāla từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân hữu hướng về Thế Tôn, sau khi thâu xếp chỗ ở, cầm y bát và khởi hành đi đến Thullakotthita, tuần tự du hành và đến Thullakotthita. Ở đấy, Tôn giả Ratthapāla trú tại vườn Lộc Uyển của vua Koravya. Rồi tôn giả Ratthapāla vào buổi sáng đắp y, cầm bát, đi vào Thullakotthita để khất thực. Tôn giả đi khất thực từng nhà một ở Thullakotthita và đến tại nhà người cha mình.

Lúc bấy giờ người cha của Tôn giả Ratthapāla đang chải tóc ở giữa gian phòng có cửa. Người cha của Tôn giả Ratthapāla thấy Tôn giả Ratthapāla từ xa đi đến, và nói:

– Chính vì những Sa-môn đầu trọc này mà đứa con độc nhất của chúng ta, khả ái, dễ thương đã xuất gia.

Và Tôn giả Ratthapāla từ ngôi nhà của cha mình, không được bố thí, không nhận được lời từ chối, chỉ nhận được lời sỉ nhục.

Lúc bấy giờ, người nữ tỳ thân gia của Tôn giả Ratthapāla muốn quăng đổ cháo ngày hôm qua. Tôn giả Ratthapāla nói với người nữ tỳ ấy:

– Này chị, nếu cần phải quăng đổ cháo này, hãy đổ vào bát của ta ở đây.

Rồi người nữ tỳ, trong khi đổ cháo ngày hôm qua ấy vào bát của Tôn giả Ratthapāla, nhận diện được tướng tay, chân và giọng nói của Tôn giả. Người nữ tỳ liền đi đến người mẹ của Tôn giả Ratthapāla, sau khi đến nói với người mẹ của Tôn giả Ratthapāla:

– Thưa tôn mẫu, tôn mẫu có biết chăng, cậu ấm Ratthapāla đã trở về.

– Thật tuyệt vời! Nếu ngươi nói đúng sự thật, ta sẽ cho ngươi được thoát khỏi thân phận nô tỳ.

Rồi mẹ Tôn giả Ratthapāla đi đến cha Tôn giả Ratthapāla và nói:

– Thưa gia chủ, gia chủ có biết chăng, thiện nam tử Ratthapāla đã trở về!

Lúc bấy giờ, Tôn giả Ratthapāla đang ăn cháo ngày hôm qua ấy, ngồi dựa vào một bức tường. Rồi người cha đến tại chỗ của Tôn giả Ratthapāla, sau khi đến liền nói với Tôn giả:

– Này con thân yêu Ratthapāla, có phải con đang ăn cháo ngày hôm qua? Này con thân yêu Ratthapāla, con phải vào nhà của con.

– Thưa gia chủ, chỗ nào là nhà của ta? Những người xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta có đến nhà của gia chủ, thưa gia chủ, nhưng tại đấy, ta không nhận được bố thí, không nhận được lời từ chối, chỉ nhận được lời sỉ nhục.

– Hãy đi vào nhà, này con thân yêu Ratthapāla!

– Thưa gia chủ, thôi vừa rồi! Hôm nay ta đã ăn xong.

– Vậy này con thân yêu Ratthapāla, hãy nhận lời mời ngày mai đến thọ trai.

Tôn giả Ratthapāla im lặng nhận lời. Rồi người cha của Tôn giả Ratthapāla, sau khi được biết Tôn giả Ratthapāla đã nhận lời liền về đến nhà của mình, cho chất vàng nén và tiền vàng thành một đống lớn, lấy màn che lại, và cho gọi các người vợ cũ của Tôn giả Ratthapāla:

– Này các con dâu, hãy tự trang điểm với những trang điểm mà xưa kia các con được Thiện nam tử Ratthapāla ái lạc và ưa thích.

Rồi người cha của Tôn giả Ratthapāla, sau khi đêm ấy đã mãn, sau khi cho sửa soạn các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm, liền báo cho Tôn giả Ratthapāla:

– Ðã đến giờ, này con thân yêu Ratthapāla, bữa trưa đã sẵn sàng.

Rồi Tôn giả Ratthapāla vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi đến nhà của người cha mình, sau khi đến ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi người cha của Tôn giả Ratthapāla cho trình bày ra đống vàng nén và tiền vàng và nói với Tôn giả Ratthapāla:

– Này con thân yêu Ratthapāla, đây là tiền tài của mẹ, kia là tiền tài của cha, kia là tiền tài của tổ tiên. Này con thân yêu Ratthapāla, con có thể thụ hưởng tài vật và làm các phước đức. Này con thân yêu Ratthapāla, hãy từ bỏ tu học, hoàn tục để thụ hưởng các tài vật và làm các phước đức.

Thưa gia chủ, nếu gia chủ làm theo lời nói của ta, sau khi chồng chất đống vàng nén và tiền vàng này vào trong các xe, sau khi cho chở và hạ xuống giữa sông Hằng, hãy đổ đống vàng này vào giữa dòng sông. Vì sao vậy? Này gia chủ, vì do nhân duyên này, mà sầu, bi, khổ, ưu, não sẽ khởi lên cho gia chủ.

Rồi những người vợ cũ của Tôn giả Ratthapāla ôm chân Tôn giả và nói:

– Thưa phu quân, phu quân vì thiên nữ nào mà phu quân sống Phạm hạnh?

– Này các bà chị, không phải vì thiên nữ nào mà ta sống Phạm hạnh.

– Ôi, phu quân Ratthapāla đối với chúng ta, gọi chúng ta là các bà chị!

Nói lên như vậy, các người vợ cũ liền ngã xuống đất, bất tỉnh. Rồi Tôn giả Ratthapāla nói với phụ thân:

– Thưa gia chủ, nếu gia chủ muốn bố thí đồ ăn thời hãy bố thí, chớ có phiền nhiễu người xuất gia.

– Hãy ăn, này con thân yêu Ratthapāla, bữa ăn đã sẵn sàng.

Rồi người cha của Tôn giả Ratthapāla tự thân mời và làm cho thỏa mãn Tôn giả Ratthapāla với các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm.

Rồi Tôn giả Ratthapāla sau khi ăn xong, tay đã rời khỏi bát, đứng dậy và nói bài kệ sau đây:

“Hãy nhìn hình bóng trang sức này,
Một nhóm vết thương được tích tụ,
Bệnh nhiều, tham tưởng cũng thật nhiều,
Nhưng không gì kiên cố, thường trú.

Hãy nhìn dung mạo trang sức này,
Với các châu báu, với vòng tai,
Một bộ xương được da bao phủ,
Ðược y phục làm cho sáng chói.

Chân được sơn với son, với sáp,
Mặt được thoa với phấn, với bột,
Vừa đủ làm mê hoặc kẻ ngu,
Nhưng vô phương với kẻ cầu giác ngộ.

Tóc được uốn bảy vòng, bảy lớp,
Mắt được xoa với thuốc, với son,
Vừa đủ làm mê hoặc kẻ ngu,
Nhưng vô phương với kẻ cầu giác ngộ.

Như hộp thuốc trang hoàng mới mẻ,
Là uế thân được điểm thời trang,
Vừa đủ làm mê hoặc kẻ ngu,
Nhưng vô phương với kẻ cầu giác ngộ.

Người thợ săn đặt bày lưới sập,
Loài nai khôn chẳng chạm bén chân,
Ăn lúa xong, chúng ta lên đường,
Mặc cho kẻ bắt nai than khóc.”

Tôn giả Ratthapāla nói bài kệ xong đứng dậy, liền đi đến vườn Lộc Uyển của vua Koravya, sau khi đến liền ngồi xuống nghỉ trưa dưới một gốc cây.

Bấy giờ, vua Koravya nói với người thợ săn:

– Này thợ săn, hãy dọn dẹp đất vườn ở Lộc Uyển, ta muốn đi thăm viếng cảnh đẹp.

– Thưa vâng, Ðại vương.

Người thợ săn vâng đáp vua Koravya, và trong khi dọn dẹp vườn Nai, thấy Tôn giả Ratthapāla đang ngồi dưới gốc cây để nghỉ trưa. Người ấy liền đến vua Koravya, và tâu vua Koravya:

– Tâu Ðại vương, vườn Nai đã được dọn dẹp. Và ở đấy có Thiện nam tử tên là Ratthapāla là con một thế gia ở Thullakotthita mà Ðại vương thường hay tán thán, vị ấy đang ngồi nghỉ trưa dưới một gốc cây.”

– Này thợ săn, hôm nay thế là vừa đủ về vườn cảnh. Nay chúng ta muốn cung kính cúng dường Tôn giả Ratthapāla.

Rồi vua Koravya, sau khi nói: “Ở đây, hãy đem bố thí tất cả món ăn đã soạn sẵn, loại cứng và loại mềm”, ra lệnh cho thắng nhiều cỗ xe thù thắng, leo lên một cỗ xe thù thắng, liền cùng với các cỗ xe đi ra khỏi Thullakotthita để yết kiến Tôn giả Ratthapāla với đại uy phong của bậc đế vương. Sau khi cỡi xe cho đến chỗ đất còn có thể cỡi xe được, vua xuống xe, đi bộ, cùng với hàng tùy tùng vương hầu, đến chỗ của Tôn giả Ratthapāla, sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Tôn giả Ratthapāla, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền đứng một bên. Ðứng một bên, vua Koravya bạch Tôn giả Ratthapala:

– Ở đây xin mời Tôn giả Ratthapāla ngồi xuống trên nệm voi.

– Thôi vừa rồi, Ðại vương! Ðại vương hãy ngồi. Ta đã ngồi trên chỗ ngồi của ta.

Rồi vua Koravya ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, vua Koravya bạch Tôn giả Ratthapāla:

– Bạch Tôn giả Ratthapāla, có bốn sự suy vong này. Chính do thành tựu bốn sự suy vong này mà ở đây, có người cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Thế nào là bốn? Lão suy vong, bệnh suy vong, tài sản suy vong, thân tộc suy vong.

– Này Tôn giả Ratthapāla, thế nào là lão suy vong? Ở đây, thưa Tôn giả Ratthapāla, có người niên cao, lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã sống mãn kỳ, đã gần mệnh chung. Vị ấy suy tư như sau: “Nay ta đã già, niên cao lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã sống mãn kỳ, đã gần mệnh chung. Thật không dễ gì cho ta có thể thâu hoạch các tài vật chưa thâu hoạch được, hay làm tăng trưởng các tài vật đã được thâu hoạch. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình”. Vị này, do thành tựu lão suy vong nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Như vậy, thưa Tôn giả Ratthapāla, được gọi là lão suy vong. Nhưng Tôn giả Ratthapāla nay còn trẻ, niên thiếu, còn thanh niên, tóc đen nhánh, trong tuổi thanh xuân, trong sơ kỳ tuổi đời; Tôn giả Ratthapāla đâu có lão suy vong? Vậy Tôn giả Ratthapāla đã biết gì, đã thấy gì, hay đã nghe gì mà xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình?

Và thưa Tôn giả Ratthapāla, thế nào là bệnh suy vong? Ở đây, thưa Tôn giả Ratthapāla, có người bị bệnh, khổ đau, mang trọng bệnh. Vị ấy suy nghĩ như sau: “Ta bị bệnh, khổ đau, mang trọng bệnh, thật không dễ gì cho ta có thể thâu hoạch các tài vật chưa thâu hoạch được, hay làm tăng trưởng các tài vật đã được thâu hoạch. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình”. Vị này do thành tựu bệnh suy vong nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Như vậy, thưa Tôn giả Ratthapāla, được gọi là bệnh suy vong. Nhưng Tôn giả Ratthapāla nay ít bệnh, ít não, tiêu hóa được điều hòa, không quá lạnh, không quá nóng; Tôn giả Ratthapāla đâu có bệnh suy vong? Tôn giả Ratthapāla đã biết gì, đã thấy gì hay đã nghe gì mà xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình?

Và thưa Tôn giả Ratthapāla, thế nào là tài sản suy vong? Ở đây, thưa Tôn giả Ratthapāla có người giàu sang, tiền của nhiều, tài vật nhiều, và những tài vật của vị ấy dần dần đi đến chỗ suy vong. Vị ấy suy nghĩ như sau: “Ta trước đây giàu sang, tiền của nhiều, tài sản nhiều. Những tài vật ấy của ta dần dần đã đi đến suy vong. Thật không dễ gì cho ta có thể thâu hoạch những tài vật chưa thâu hoạch được, hay làm cho tăng trưởng những tài vật đã được thâu hoạch. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình”. Vị này do tài sản suy vong nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Như vậy, thưa Tôn giả Ratthapāla, như vậy được gọi là tài sản suy vong. Nhưng Tôn giả Ratthapāla chính tại Thullakotthita này, là con của một lương gia thượng tộc đệ nhất; Tôn giả Ratthapāla đâu có tài sản suy vong? Tôn giả Ratthapāla đã biết gì, đã thấy gì, hay đã nghe gì mà xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình?

Và này Tôn giả Ratthapāla, thế nào là thân tộc suy vong? Ở đây, thưa Tôn giả Ratthapāla có người có nhiều thân hữu quen biết, bà con huyết thống, những thân hữu quyến thuộc của người ấy dần dần đi đến chỗ suy vong. Người ấy suy tư như sau: “Trước kia, ta có nhiều người thân hữu quen biết, bà con huyết thống. Những thân hữu quyến thuộc ấy của ta dần dần đi đến chỗ suy vong. Thật không dễ gì cho ta có thể thâu hoạch những tài vật chưa thâu hoạch được, hay làm cho tăng trưởng những tài vật đã được thâu hoạch. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình”. Vị này do thành tựu thân tộc suy vong nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Như vậy, thưa Tôn giả Ratthapāla, được gọi là thân tộc suy vong. Nhưng Tôn giả Ratthapāla ở chính tại Thullakotthita này, có nhiều thân hữu quen biết, bà con huyết thống, Tôn giả Ratthapāla đâu có thân tộc suy vong? Vậy Tôn giả Ratthapāla đã biết gì, đã thấy gì hay đã nghe gì mà xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình?

Thưa Tôn giả Ratthapāla, đây là bốn loại suy vong, do thành tựu bốn loại suy vong này mà ở đây, có người cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình; Tôn giả Ratthapāla đâu có những loại ấy? Vậy Tôn giả đã biết gì, đã thấy gì, hay đã nghe gì mà xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình?

– Thưa Ðại vương, có bốn sự thuyết giáo Chánh pháp, được Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giảng dạy. Do ta biết, ta thấy và ta nghe thuyết giáo ấy, mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

Thế nào là bốn?

1) “Thế giới là vô thường, đi đến hủy diệt.” Thưa Ðại vương, đó là thuyết giáo Chánh pháp thứ nhất, do Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thuyết giảng. Do ta biết, ta thấy và ta nghe thuyết giáo ấy, mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

2) “Thế giới là vô hộ, vô chủ.” Thưa Ðại vương, đó là thuyết giáo Chánh pháp thứ hai, do Thế Tôn, bậc Tri giả. Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuyết giảng. Do ta biết, ta thấy và ta nghe thuyết giáo ấy, mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

3) “Thế giới là vô sở hữu, ra đi cần phải từ bỏ tất cả.” Thưa Ðại vương đó là thuyết giáo Chánh pháp thứ ba, do Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuyết giảng. Do ta biết, ta thấy, ta nghe thuyết giáo ấy, mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

4) “Thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái.” Thưa Ðại vương, đó là thuyết giáo Chánh pháp thứ tư, do Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuyết giảng. Do ta biết, ta thấy, ta nghe thuyết giáo ấy, mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

– Thưa Ðại vương, đây là bốn sự thuyết giáo Chánh pháp, được Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giảng dạy. Do ta biết, ta thấy và ta nghe thuyết giáo ấy, mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

– Tôn giả Ratthapāla đã nói: “Thế giới là vô thường, đi đến hủy diệt”. Ý nghĩa của lời nói này cần phải được hiểu như thế nào, thưa Tôn giả Ratthapāla?

– Thưa Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào? Khi Ngài hai mươi tuổi, hay hai mươi lăm tuổi, Ngài có thiện nghệ về voi, thiện nghệ về ngựa, thiện nghệ về xe, thiện nghệ về cung, thiện nghệ về kiếm, bắp vế mạnh và cánh tay mạnh, có khả năng và thiện nghệ trong nghề đánh trận?

– Thưa Tôn giả Ratthapāla, khi ta được hai mươi hay hai mươi lăm tuổi, ta thiện nghệ về voi, thiện nghệ về ngựa, thiện nghệ về xe, thiện nghệ về cung, thiện nghệ về kiếm, bắp vế mạnh, và cánh tay mạnh, có khả năng và thiện nghệ trong nghề đánh trận. Có lúc, ta cảm thấy có thần lực và xem không ai có thể bằng ta về sức mạnh.

– Thưa Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào? Nay Ðại vương vẫn còn bắp vế mạnh, cánh tay mạnh, có khả năng và thiện nghệ đánh trận như vậy không?

– Không như vậy, thưa Tôn giả Ratthapāla. Nay ta đã già, niên cao, lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã sống mãn kỳ, đã gần mệnh chung, gần 80 tuổi thọ. Có lúc, thưa Tôn giả Ratthapāla, ta nghĩ: Ta sẽ bước chân ở đây, nhưng ta lại bước chân tại chỗ khác.

– Chính liên hệ với nghĩa này, này Ðại vương, mà Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán Chánh Ðẳng Giác đã nói: “Thế giới là vô thường, đi đến hủy diệt”. Và ta sau khi biết, sau khi thấy và sau khi nghe như vậy, ta đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

– Thật vi diệu thay, Tôn giả Ratthapāla! Thật hy hữu thay, Tôn giả Ratthapāla! Ý nghĩa này được Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, Bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác đã khéo nói: “Thế giới là vô thường, đi đến hủy diệt”. Thật vậy, thưa Tôn giả, thế giới là vô thường, đi đến hủy diệt.

Nhưng thưa Tôn giả Ratthapāla, ở vương quốc này, có đội quân voi, cũng có đội quân ngựa, cũng có đội quân xa, cũng có đội quân bộ, nếu chúng ta gặp nguy khốn thời các đội quân bảo vệ chúng ta. Tôn giả Ratthapāla đã nói: “Thế giới là vô hộ, vô chủ”. Ý nghĩa của lời nói này, cần phải được hiểu như thế nào, thưa Tôn giả Ratthapāla?

– Thưa Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào? Ðại vương có mắc chứng bệnh kinh niên nào không?

– Thưa Tôn giả Ratthapāla, ta có bệnh phong kinh niên. Nhiều khi, thân hữu quen biết, bà con huyết thống đứng xung quanh ta và nói: “Nay vua Koravya sẽ mệnh chung, nay vua Koravya sẽ mệnh chung.”

– Thưa Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào? Ðại vương có thể nói chăng, với các thân hữu quen biết, bà con huyết thống của Ðại vương: “Mong rằng Tôn giả thân hữu quen biết, bà con huyết thống giúp làm vơi nhẹ sự đau khổ của ta! Mong tất cả hãy san sẻ cảm thọ này, để ta có thể có một cảm thọ nhẹ nhàng hơn!” hay là Ðại vương chỉ có thể thọ lãnh cảm thọ ấy một mình?

– Thưa Tôn giả Ratthapāla, ta không có thể nói với các thân hữu quen biết, bà con huyết thống của ta: “Mong rằng các Tôn giả thân hữu quen biết, bà con huyết thống giúp làm vơi nhẹ sự đau khổ của ta! Mong tất cả hãy san sẻ cảm thọ này để có thể có một cảm thọ nhẹ nhàng hơn!” Và ta chỉ có thể thọ lãnh cảm thọ ấy một mình.

– Chính liên hệ với nghĩa này, này Ðại vương mà Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã nói: “Thế giới là vô hộ, vô chủ”. Và ta sau khi biết, sau khi thấy và sau khi nghe như vậy, ta đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

– Thật vi diệu thay, Tôn giả Ratthapāla! Thật hy hữu thay, Tôn giả Ratthapāla! Ý nghĩa này được Thế Tôn bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã khéo nói: “Thế giới là vô hộ, vô chủ”. Thật vậy, thưa Tôn giả Ratthapāla, thế giới là vô hộ, vô chủ.

Nhưng thưa Tôn giả Ratthapāla, ở vương quốc này có rất nhiều vàng nén và tiền vàng dưới đất và trên mặt đất. Tôn giả Ratthapāla đã nói: “Thế giới là vô sở hữu, ra đi cần phải từ bỏ tất cả”. Ý nghĩa của lời nói này cần phải được hiểu như thế nào, thưa Tôn giả Ratthapāla?”

– Thưa Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào? Dầu cho nay Ðại vương sống thụ hưởng mãn túc, cụ túc năm món dục trưởng dưỡng, Ðại vương có thể nói được như sau: “Chính như vậy, ta thọ hưởng mãn túc, cụ túc năm món dục trưởng dưỡng này”; hay là người khác sẽ thọ hưởng tài sản này, còn Ðại vương sẽ phải đi theo nghiệp của mình?

– Thưa Tôn giả Ratthapāla, dầu cho nay ta sống thụ hưởng mãn túc, cụ túc năm món dục trưởng dưỡng. Ta không có thể nói được như sau: “Chính như vậy ta thọ hưởng mãn túc, cụ túc năm món dục trưởng này”. Chính người khác sẽ thọ hưởng tài sản này, còn ta phải đi theo nghiệp của ta.

– Chính liên hệ với nghĩa này, này Ðại vương, mà Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã nói: “Thế giới là vô sở hữu, cần phải ra đi, từ bỏ tất cả”. Và ta sau khi biết, sau khi thấy và sau khi nghe như vậy, ta đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.”

– Thật vi diệu thay, Tôn giả Ratthapāla! Thật hy hữu thay, Tôn giả Ratthapāla! Ý nghĩa này được Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã khéo nói: “Thế giới là vô sở hữu, cần phải ra đi, từ bỏ tất cả”. Thật vậy, thưa Tôn giả Ratthapāla, thế giới là vô sở hữu, cần phải ra đi, từ bỏ tất cả.

Nhưng Tôn giả Ratthapāla đã nói: “Thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái”. Ý nghĩa của lời nói này cần phải được hiểu như thế nào, thưa Tôn giả Ratthapāla?

– Thưa Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào? Có phải Ðại vương trị vì ở Kuru, một nước phồn thịnh?

– Thưa vâng, Tôn giả Ratthapāla. Ta trị vì ở Kuru, một nước phồn thịnh.

– Thưa Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào? Nếu có người đáng tin cậy, chánh trực đến với Ðại vương từ phương Ðông, và sau khi đến, tâu với Ðại Vương: “Tâu Ðại vương, Ðại vương có biết chăng? Tôi từ phương Ðông lại. Ở đấy, tôi có thấy một quốc độ lớn, phú cường, phồn thịnh, dân cư trù mật. Tại đấy có nhiều đội voi, đội ngựa, đội xe, đội quân. Tại đấy có nhiều ngà voi, tại đấy có nhiều vàng nén, tiền vàng chưa làm và đã làm, có nhiều phụ nữ. Và có thể chinh phục quốc độ ấy với vũ lực như thế ấy. Tâu Ðại vương, hãy đi chinh phục!” Ðại vương sẽ hành động như thế nào?

– Thưa Tôn giả Ratthapāla, ta sẽ chinh phục quốc độ ấy, sau khi chinh phục, ta sẽ trị vì.

– Thưa Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào? Ở đây có người đến với Ðại vương từ phương Tây… từ phương Bắc… từ phương Nam… từ bờ biển bên kia, người ấy đáng tin cậy, chánh trực, tâu với Ðại vương: “Tâu Ðại vương, Ðại vương có biết chăng? Tôi từ bờ biển bên kia lại. Ở đây, tôi thấy có một quốc độ lớn, phú cường, phồn thịnh, dân cư trù mật. Tại đấy có nhiều đội voi, đội ngựa, đội xe, đội quân. Tại đấy có nhiều ngà voi. Tại đấy có nhiều vàng nén, tiền vàng chưa làm và đã làm, có nhiều phụ nữ. Và có thể chinh phục quốc độ ấy với vũ lực như thế ấy. Tâu Ðại vương, hãy đi chinh phục”. Ðại vương sẽ hành động như thế nào?

– Thưa Tôn giả Ratthapāla, ta sẽ chinh phục quốc độ ấy, sau khi chinh phục, ta sẽ trị vì.

– Này Ðại vương, chính liên hệ với nghĩa này, mà Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã nói: “Thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái.” Và ta sau khi biết, sau khi thấy, sau khi nghe như vậy, ta đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

– Thật vi diệu thay, Tôn giả Ratthapāla! Thật hy hữu thay, Tôn giả Ratthapāla! Ý nghĩa này được Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã khéo nói: “Thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái”. Thật vậy, thưa Tôn giả Ratthapāla, thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái.

Tôn giả Ratthapāla đã giảng như vậy, sau khi giảng như vậy xong, lại nói thêm như sau:

Ta thấy người giàu sang ở đời,
Có của vì si không bố thí.
Vì tham, họ tích tụ tài vật,
Và chạy theo dục vọng càng nhiều.

Dùng bạo lực, chinh phục quả đất,
Vua trị vì cho đến hải biên,
Không thỏa mãn bờ biển bên này,
Và chạy theo bờ biển bên kia.

Vua cùng rất nhiều loại người khác,
Ái chưa ly, mạng chung đã đến,
Bị thiếu thốn, không bỏ thân họ,
Không thỏa mãn lòng dục ở đời.

Quyến thuộc tán loạn, khóc người ấy:
“Than ôi, người ấy không bất tử!”
Thi thể người ấy vải bao phủ,
Họ đốt lửa làm lễ hỏa thiêu.

Bị thọc với cây, người ấy cháy,
Ðộc mảnh vải, bỏ tiền của lại.
Ở đây, quyến thuộc cùng thân hữu,
Không nơi nương tựa cho kẻ chết.

Kẻ thừa tự, nhận mang tài sản,
Riêng con người, theo nghiệp phải đi,
Tiền của không có theo người chết,
Cả vợ con, tài sản, quốc độ.

Tài sản không mua được trường thọ,
Phú quý không tránh được già suy,
Kẻ trí nói: đời này thật ngắn,
Thật vô thường, biến đổi luôn luôn.

Kẻ giàu, kẻ nghèo đều cảm xúc,
Người ngu, kẻ trí đồng cảm thọ,
Kẻ ngu bị ngu đánh nằm ngã,
Bậc trí cảm xúc, không run sợ.

Do vậy, trí tuệ thắng tài vật,
Nhờ trí, ở đây được viên thành.
Không thành mãn trong hữu, phi hữu,
Kẻ ngu tạo tác các ác nghiệp.

Nhập thai thác sanh thế giới khác,
Người ấy luân hồi, tiếp tục sanh.
Kẻ thiểu trí chắc hẳn phải là
Nhập thai và sanh thế giới khác.

Như kẻ trộm bị bắt khi trộm,
Ác tánh hại mình do tự nghiệp.
Chúng sanh cũng vậy sanh chết mãi,
Ác tánh hại mình, do tự lực.

Dục vọng nhiều loại, ngọt, khả ái,
Nhiễu loạn tâm dưới nhiều hình thức,
Thấy hoạn nạn trong dục trưởng dưỡng,
Nên ta xuất gia, thưa Ðại vương!

Như quả từ đây, người bị rụng,
Cả già lẫn trẻ, khi thân hoại,
Do thấy chính vậy, ta xuất gia,
Hạnh Sa-môn phải là tối thắng.

Thưa Ðại vương!

(HẾT KINH RATTHAPĀLA)

KINH THÂN HÀNH NIỆM
(Kàyagatàsati sutta. MN. 119)

Việt dịch: HT. Thích Minh Châu

Như vậy ta nghe.

Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī, tại Jetavana, vườn Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc). Rồi một số đông Tỷ-kheo, sau buổi ăn, sau khi đi khất thực trở về, cùng ngồi tụ họp trong hội trường, và câu chuyện này được khởi lên giữa chúng Tăng:

“Thật vi diệu thay, chư Hiền giả! Thật hy hữu thay, chư Hiền giả! Thân hành niệm, khi được tu tập và làm cho sung mãn, có được quả lớn, có được công đức lớn, như đã được Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác tuyên bố.” Và câu chuyện này giữa các Tỷ-kheo ấy đã bị gián đoạn.

Thế Tôn vào buổi chiều, từ thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến hội trường, sau khi đến ngồi lên chỗ soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:

– Ở đây, này các Tỷ-kheo, các ngươi hiện nay đang ngồi bàn vấn đề gì? Câu chuyện gì của các ngươi bị gián đoạn?

– Ở đây, bạch Thế Tôn, sau khi đi khất thực trở về, sau khi ăn xong, chúng con ngồi tụ họp tại hội trường, và câu chuyện sau đây được khởi lên: “Thật vi diệu thay, chư Hiền giả! Thật hy hữu thay, chư Hiền giả! Thân hành niệm này được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có công đức lớn, đã được Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tuyên bố”. Bạch Thế Tôn, câu chuyện này của chúng con chưa bàn xong thời Thế Tôn đến.

– Và này các Tỷ-kheo, Thân hành niệm được tu tập như thế nào, được làm cho sung mãn như thế nào, có quả lớn, có công đức lớn?

(QUÁN HƠI THỞ)

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống và ngồi kiết-già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy tuệ tri “thở vô dài”; thở ra dài, vị ấy tuệ tri “thở ra dài”. Thở vô ngắn, vị ấy tuệ tri “thở vô ngắn”; thở ra ngắn, vị ấy tuệ tri “thở ra ngắn”. “Cảm giác toàn thân, tỉnh giác thở vô”, vị ấy tập; “Cảm giác toàn thân, tỉnh giác thở ra”, vị ấy tập. “An tịnh thân hành, tỉnh giác thở vô”, vị ấy tập; “An tịnh thân hành, tỉnh giác thở ra”, vị ấy tập.

Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập Thân hành niệm.

(QUÁN BỐN OAI NGHI CHÍNH)

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi, tuệ tri “đi”; hay đứng, tuệ tri “đứng”; hay ngồi, tuệ tri “ngồi”; hay nằm, tuệ tri “nằm”. Thân thể được sử dụng như thế nào, vị ấy tuệ tri thân thể như thế ấy. Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập Thân hành niệm.

(QUÁN CÁC OAI NGHI PHỤ)

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi bước tới, bước lui biết rõ việc mình đang làm; khi ngó tới ngó lui biết rõ việc mình đang làm; khi co tay, khi duỗi tay, biết rõ việc mình đang làm; khi mang áo tăng-già-lê, mang bát, mang y, biết rõ việc mình đang làm; khi ăn, uống, nhai, nếm, biết rõ việc mình đang làm; khi đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng, biết rõ việc mình đang làm.

Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập Thân hành niệm.

(QUÁN 30 THỂ TRƯỢC)

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt: “Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, niêm dịch, nước ở khớp xương, nước tiểu”. Này các Tỷ-kheo, cũng như một bao đồ, hai đầu trống, đựng đầy các loại hột, như gạo, lúa, đậu xanh, đậu lớn, mè, gạo đã xay rồi. Một người có mắt, đổ các hột ấy ra và quán sát: “Ðây là hột gạo, đây là hột lúa, đây là đậu xanh, đây là đậu lớn, đây là mè, đây là hột lúa đã xay rồi”. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo quán sát thân này dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt: “Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, niêm dịch, nước ở khớp xương, nước tiểu.”

Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập Thân hành niệm.

(QUÁN TỨ ĐẠI TRONG THÂN)

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này về các vị trí các giới và sự sắp đặt các giới: “Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại.” Này các Tỷ-kheo, như một người đồ tể thiện xảo, hay đệ tử của một người đồ tể giết một con bò, ngồi cắt chia từng thân phần tại ngã tư đường, cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo quán sát thân này về vị trí các giới và về sự sắp đặt các giới: “Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại.”

Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập Thân hành niệm.

(QUÁN TỬ THI QUA CÁC GIAI ĐOẠN)

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa một ngày, hai ngày, ba ngày, thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen lại, nát thối ra; Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy.”

Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập Thân hành niệm.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa bị các loài quạ ăn, hay bị các loài diều hâu ăn, hay bị các chim kên ăn, hay bị các loài chó ăn, hay bị các loài giả can ăn, hay bị các loài côn trùng ăn; Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản chất là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy.”

Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập Thân hành niệm.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, với các bộ xương còn liên kết với nhau, còn dính thịt và máu, còn được các đường gân cột lại; Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy.”

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, với các bộ xương còn liên kết với nhau, không còn dính thịt nhưng còn dính máu, còn được các đường gân cột lại; Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy.”

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, chỉ còn có xương không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia; ở đây là xương tay, ở đây là xương chân, ở đây là xương ống, ở đây là xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở đây là xương sống, ở đây là xương đầu; Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy.”

Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập Thân hành niệm.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, chỉ còn toàn xương trắng màu vỏ ốc; Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy.”

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, chỉ còn một đống xương lâu hơn một năm; Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy.”

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, chỉ còn là xương thối trở thành bột; Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy.”

Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập Thân hành niệm.

(CHỨNG CÁC BẬC THIỀN)

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly ác pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm và tứ. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.

Này các Tỷ-kheo, như một người hầu tắm lão luyện hay đệ tử người hầu tắm, sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước. Cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, nhào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.

Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập Thân hành niệm.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy diệt tầm và tứ, chứng và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Tỷ-kheo ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần.

Này các Tỷ-kheo, ví như một hồ nước, nước tự trong dâng lên, phương Ðông không có lỗ nước chảy ra, phương Tây không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước chảy ra, phương Nam không có lỗ nước chảy ra và thỉnh thoảng trời lại mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nước ấy phun ra thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy hồ nước ấy, với nước mát lạnh, không một chỗ nào của hồ nước ấy không được nước mát lạnh thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần.

Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập Thân hành niệm.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là “Xả niệm lạc trú”, chứng và an trú Thiền thứ ba. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần.

Này các Tỷ-kheo, ví như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, có những sen xanh, sen hồng hay sen trắng. Những bông sen ấy sanh trong nước, lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước, nuôi sống dưới nước, từ đầu ngọn cho đến gốc rễ đều thấm nhuần, tẩm ướt, đầy tràn thấu suốt bởi nước mát lạnh ấy, không một chỗ nào của toàn thể sen xanh, sen hồng hay sen trắng không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần.

Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập Thân hành niệm.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Tỷ-kheo ấy ngồi, thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần.

Này các Tỷ-kheo, ví như một người ngồi, dùng tấm vải trắng trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn thân không được vải trắng ấy che thấu. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ngồi thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh, trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần.

Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập Thân hành niệm.

Này các Tỷ-kheo, đối với vị nào tu tập làm cho sung mãn Thân hành niệm, các thiện pháp của vị ấy đi vào nội tâm đều thuộc về minh phần. Ví như, này các Tỷ-kheo, biển lớn của ai được thấm nhuần bởi tâm, thời các con sông của vị ấy đi vào trong biển, đều thuộc về biển lớn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với vị nào tu tập làm cho sung mãn Thân hành niệm, các thiện pháp của vị ấy đi vào nội tâm đều thuộc về minh phần.

Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo nào không tu tập Thân hành niệm, không làm cho sung mãn, thời ma vương có cơ hội với vị ấy, ma vương có cơ duyên với vị ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, có người quăng một hòn đá nặng vào một đống đất sét ướt nhuyễn, này các Tỷ-kheo, các ngươi nghĩ thế nào? Có phải hòn đá nặng ấy có cơ hội lún sâu vào đống đất sét ướt nhuyễn ấy?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với ai không tu tập Thân hành niệm, không làm cho sung mãn, thời ma vương có cơ hội với vị ấy, ma vương có cơ duyên với vị ấy.

Ví như, này các Tỷ-kheo, một cây khô không có nhựa, có người đến cầm phần phía trên của đồ quay lửa và nói: “Ta sẽ làm cho ngọn lửa sanh ra, ta sẽ làm cho sức nóng hiện lên.” Này các Tỷ-kheo, các ngươi nghĩ thế nào? Người ấy mang đến phần phía trên của đồ quay lửa, quay với cành cây khô không có nhựa ấy, người ấy có làm cho ngọn lửa sanh ra, có làm cho sức nóng hiện lên không?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với ai không tu tập Thân hành niệm, không làm cho sung mãn, thời ma vương có cơ hội với người ấy, ma vương có cơ duyên với người ấy.

Ví như, này các Tỷ-kheo, một bình nước trống rỗng, trống không, được đặt trên cái giá, có một người đi đến, mang theo đầy nước. Này các Tỷ-kheo, các ngươi nghĩ thế nào? Người ấy có thể đổ nước vào bình không?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị nào không tu tập Thân hành niệm, không làm cho sung mãn, thời ma vương có cơ hội với vị ấy, ma vương có cơ duyên với vị ấy.

Này các Tỷ-kheo, vị nào có tu tập thân hành niệm, làm cho sung mãn, thời ma vương không có cơ hội với vị ấy, ma vương không có duyên với vị ấy. Ví như, này các Tỷ-kheo, có người quăng một trái banh dây nhẹ vào một cánh cửa làm hoàn toàn bằng lõi cây. Này các Tỷ-kheo, các ngươi nghĩ thế nào? Trái banh dây nhẹ ấy có cơ hội đối với cánh cửa làm hoàn toàn bằng lõi cây không?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với vị nào có tu tập Thân hành niệm, làm cho sung mãn, thời ma vương không có cơ hội đối với vị ấy, ma vương không có cơ duyên đối với vị ấy.

Ví như, này các Tỷ-kheo, một cây ướt có nhựa, rồi một người đi đến mang theo phần trên đồ quay lửa và nói: “Ta sẽ làm cho lửa sinh ra, ta sẽ làm cho hơi nóng hiện lên.” Này các Tỷ-kheo, các ngươi nghĩ thế nào? Người ấy mang theo phần trên đồ quay lửa, quay với các cây ướt và có nhựa, có thể làm cho lửa sanh ra, làm cho hơi nóng hiện lên được không?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với vị nào có tu tập Thân hành niệm, làm cho sung mãn, thời ma vương không có cơ hội đối với vị ấy, ma vương không có cơ duyên đối với vị ấy.

Ví như, này các Tỷ-kheo, một bình nước đầy tràn nước đến nỗi con quạ có thể uống được, được đặt trên cái giá, rồi có người đi đến, mang theo đầy nước. Này các Tỷ-kheo, các ngươi nghĩ thế nào?  Người ấy có thể đổ được nước vào bình ấy không?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với vị nào tu tập Thân hành niệm, làm cho sung mãn, thời ma vương không có cơ hộ đối với người ấy, ma vương không có cơ duyên đối với người ấy.

Này các Tỷ-kheo, đối với vị nào tu tập Thân hành niệm, làm cho sung mãn, vị ấy hướng tâm đã được chứng ngộ nhờ thắng trí đến pháp nào cần phải chứng ngộ nhờ thắng trí, vị ấy đối mặt đạt được sự tinh tế của pháp ấy dầu thuộc giới xứ nào. Ví như, này các Tỷ-kheo, một bình đầy tràn nước cho đến con quạ có thể uống được, được đặt trên cái giá và có người lực sĩ đến và lắc qua lắc lại cái bình ấy, như vậy nước có thể trào ra ngoài không?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với vị nào tu tập Thân hành niệm, làm cho sung mãn, vị ấy hướng tâm đã được chứng ngộ nhờ thắng trí đến pháp nào cần phải chứng ngộ nhờ thắng trí, vị ấy đối mặt đạt được sự tinh tế của pháp ấy dầu thuộc giới xứ nào.

Ví như có một hồ nước trên một miếng đất bằng, bốn phía có đê đắp làm cho vững chắc, và tràn đầy nước cho đến con quạ có thể uống được. Rồi có người lực sĩ đến và phá một khúc đê, nước có thể tràn ra ngoài không?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với vị nào tu tập Thân hành niệm, làm cho sung mãn, vị ấy hướng tâm đã được chứng ngộ nhờ thắng trí đến pháp nào cần phải chứng ngộ nhờ thắng trí, vị ấy đối mặt đạt được sự tinh tế của pháp ấy dầu thuộc giới xứ nào.

Ví như, này các Tỷ-kheo, trên đất bằng tại chỗ ngã tư có một chiếc xe đậu, thắng với những con ngựa thuần thục, có roi ngựa đặt ngang sẵn sàng, có người mã thuật sư thiện xảo, người đánh xe điều ngự các con ngựa đáng được điều ngự, leo lên xe ấy, tay trái nắm dây cương, tay mặt cầm lấy roi ngựa, có thể đánh xe ngựa ấy đi tới đi lui, tại chỗ nào và như thế nào theo ý mình muốn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với vị nào tu tập Thân hành niệm, làm cho sung mãn, vị ấy hướng tâm đã được chứng ngộ nhờ thắng trí đến pháp nào cần phải chứng ngộ nhờ thắng trí, vị ấy đối mặt đạt được sự tinh tế của pháp ấy dầu thuộc giới xứ nào.

(CÔNG ĐỨC CỦA THÂN HÀNH NIỆM)

Này các Tỷ-kheo, Thân hành niệm được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như thành cỗ xe, được làm như thành căn cứ địa, được làm cho kiên trì, được làm cho tích tập, được khéo tinh cần thực hành, thời mười công đức này có thể được mong đợi. Thế nào là mười?

(1) Bất lạc được nhiếp phục, và bất lạc không nhiếp phục vị ấy, và vị ấy sống luôn luôn nhiếp phục bất lạc được khởi lên.

(2) Khiếp đảm sợ hãi được nhiếp phục, và khiếp đảm sợ hãi không nhiếp phục vị ấy, và vị ấy luôn luôn nhiếp phục khiếp đảm sợ hãi được khởi lên.

(3) Vị ấy kham nhẫn được lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, mặt trời, các loài rắn rết, các cách nói khó chịu, khó chấp nhận. Vị ấy có khả năng chịu đựng được những cảm thọ về thân khởi lên, khổ đau, nhói đau, thô bạo, chói đau, bất khả ý, bất khả ái, đưa đến chết điếng.

(4) Tùy theo ý muốn, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, vị ấy chứng được bốn bậc Thiền, thuần túy tâm tư, hiện tại lạc trú.

(5) Vị ấy chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện một thân; hiện hình biến đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang hư không; độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước; đi trên nước không chìm như đi trên đất liền; ngồi kiết-già đi trên hư không như con chim; với bàn tay, chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; có thể, thân có thần thông bay cho đến Phạm Thiên.

(6) Với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng: chư thiên và loài người, ở xa hay ở gần.

(7) Với tâm của vị ấy, vị ấy biết tâm của các chúng sanh, các loại người; tâm có tham, biết tâm có tham; tâm không tham, biết tâm không tham; tâm có sân, biết tâm có sân; tâm không sân, biết tâm không sân; tâm có si, biết tâm có si; tâm không si, biết tâm không si; tâm chuyên chú, biết tâm chuyên chú; tâm tán loạn, biết tâm tán loạn; tâm đại hành, biết tâm đại hành; tâm không đại hành, biết tâm không đại hành; tâm chưa vô thượng, biết tâm chưa vô thượng; tâm vô thượng, biết tâm vô thượng; tâm thiền định, biết tâm thiền định; tâm không thiền định, biết tâm không thiền định; tâm giải thoát, biết tâm giải thoát; tâm không giải thoát, biết tâm không giải thoát.

(8) Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ với các nét đại cương và các chi tiết.

(9) Với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, vị ấy thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ.

(10) Với sự diệt trừ các lậu hoặc, sau khi tự mình chứng tri với thượng trí, vị ấy chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát không có lậu hoặc.

Này các Tỷ-kheo, Thân hành niệm được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như cỗ xe, được làm như thành căn cứ địa, được làm cho kiên trì, được làm cho tích tập, được khéo tinh cần thực hành, thời mười công đức này có thể mong đợi.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

(HẾT KINH THÂN HÀNH NIỆM)

TIỂU KINH

NGHIỆP PHÂN BIỆT

(Cùlakammavibhanga sutta. MN. 135)

Việt dịch: HT. Thích Minh Châu

Như vậy ta nghe.

Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī, tại Jetavana, vườn Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc).

Rồi thanh niên Subha Todeyyaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thanh niên Subha Todeyyaputta bạch Thế Tôn:

– Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì giữa loài người với nhau, khi họ là loài người, lại thấy có người liệt, có người ưu?

– Thưa Tôn giả Gotama, chúng con thấy có người đoản thọ, có người trường thọ; chúng con thấy có người nhiều bệnh, có người ít bệnh; chúng con thấy có người xấu sắc, có người đẹp sắc; chúng con thấy có người quyền thế nhỏ, có người quyền thế lớn; chúng con thấy có người tài sản nhỏ, có người tài sản lớn; chúng con thấy có người thuộc gia đình hạ liệt, có người thuộc gia đình cao quý; chúng con thấy có người trí tuệ yếu kém, có người có đầy đủ trí tuệ.

– Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, giữa loài người với nhau, khi họ là loài người, lại thấy có người liệt, có người ưu?

– Này Thanh niên, các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình, nghĩa là có liệt, có ưu.

– Con không hiểu nghĩa một cách rộng rãi điều mà Tôn giả Gotama nói một cách vắn tắt, không có giải nghĩa rộng rãi. Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp cho con để con có thể hiểu nghĩa một cách rộng rãi.

– Vậy này Thanh niên, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói. – “Thưa vâng, Tôn giả.”

Thanh niên Subha Todeyyaputta vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

(ĐOẢN MẠNG)

– Ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, sát sanh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loại chúng sanh. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu sau khi mạng chung, người ấy không sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục; nếu được đi đến loài người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy đoản mạng. Con đường ấy đưa đến đoản mạng, này Thanh niên, tức là sát sanh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loài hữu tình.

(TRƯỜNG THỌ)

Nhưng ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay đàn ông, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, thiên giới, ở đời. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào cõi lành, thiện thú, thiên giới, ở đời; nếu người ấy đi đến loài người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy trường thọ. Con đường ấy đưa đến trường thọ, này Thanh niên, tức là từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình.

(NHIỀU BỆNH TẬT)

Ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, tánh hay não hại các loài hữu tình, với tay, hay với cục đất, hay với cây gậy, hay với cây đao. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục; nếu người ấy đi đến loài người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy có nhiều bệnh hoạn. Con đường ấy đưa đến nhiều bệnh hoạn, này Thanh niên, tức là tánh hay não hại các loài hữu tình với tay, hay với cục đất, hay với cây gậy, hay với cây đao.

(ÍT BỆNH HOẠN)

Nhưng ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, tánh không hay não hại các loài hữu tình, với tay, hay với cục đất, hay với cây gậy, hay với cây đao. Do nghiệp ấy thành đạt như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, thiên giới, ở đời. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào cõi lành, thiện thú, thiên giới, ở đời; nếu người ấy đi đến loài người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy ít bệnh hoạn. Con đường ấy đưa đến ít bệnh hoạn, này Thanh niên, tức là tánh không não hại các loài hữu tình, với tay, hay với cục đất, hay với cây gậy, hay với cây đao.

(XẤU SẮC)

Ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, phẫn nộ, nhiều phật ý, bị nói đến một chút thời bất bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối, và tỏ lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục; nếu người ấy đi đến loài người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy có xấu sắc. Con đường ấy đưa đến xấu sắc, này Thanh niên, tức là phẫn nộ, nhiều phật ý, bị nói đến một chút thời bất bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối, và tỏ lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn.

(ĐẸP SẮC)

Ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, không phẫn nộ, không nhiều phật ý, dầu cho bị nói đến nhiều, cũng không bất bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối, và không tỏ lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào cõi lành, thiện thú, thiên giới, ở đời. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào cõi lành, thiện thú, thiên giới, ở đời; nếu người ấy đi đến loài người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy có đẹp sắc (với hoan hỷ). Con đường ấy đưa đến đẹp sắc, này Thanh niên, tức là không phẫn nộ, không nhiều phật ý, dầu cho bị nói đến nhiều, cũng không bất bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối, và không tỏ lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn.

(QUYỀN THẾ NHỎ)

Ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, tật đố, đối với người khác được quyền lợi, được tôn trọng, cung kính, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường, sanh tật đố, sanh tâm, ôm ấp tâm tật đố. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu sau khi mạng chung, người ấy không sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục; nếu người ấy đi đến loài người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy có quyền thế nhỏ. Con đường ấy đưa đến quyền thế nhỏ, này Thanh niên, tức là tật đố, ôm tâm tật đố.

(QUYỀN THẾ LỚN)

Nhưng ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, không có tật đố, đối với những người khác được quyền lợi, được tôn trọng, cung kính, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường, không sanh tật đố, không sanh tâm, không ôm ấp tâm tật đố. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, thiên giới, ở đời. Nếu sau khi mạng chung, người ấy không sanh vào cõi lành, thiện thú, thiên giới, ở đời; nếu người ấy đi đến loài người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy có quyền thế lớn. Con đường ấy đưa đến quyền thế lớn ấy, này Thanh niên, tức là không tật đố, không ôm ấp tật đố.

(NGHÈO CÙNG)

Ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, không bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn đồ ăn uống, y phục, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, ngọa cụ, nhà cửa, đèn đuốc. Do nghiệp ấy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục… Nếu người ấy đi đến loài người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy có tài sản nhỏ. Con đường đưa đến tài sản nhỏ ấy, này Thanh niên, tức là không bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn đồ ăn uống, y phục, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, ngọa cụ, nhà cửa, đèn đuốc.

(GIÀU CÓ)

Nhưng ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông có bố thí cho Sa-môn hay cho Bà-la-môn các đồ ăn uống… ngọa cụ, nhà cửa, đèn đuốc. Do nghiệp ấy thành đạt như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào cõi lành, thiện thú, thiên giới, ở đời. Nếu người ấy không sanh vào thiện thú, thiên giới, ở đời; nếu người ấy đi đến loài người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy có nhiều tài sản. Con đường đưa đến nhiều tài sản, này Thanh niên, tức là bố thí cho Sa-môn hay cho Bà-la-môn các đồ ăn uống… ngọa cụ, nhà cửa, đèn đuốc.

(GIA ĐÌNH HẠ LIỆT)

Ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông ngạo nghễ, kiêu mạn, không đảnh lễ những người đáng đảnh lễ, không đứng dậy đối với người đáng đứng dậy, không mời ngồi những người đáng mời ngồi, không nhường chỗ đi cho những người đáng được nhường chỗ đi, không tôn trọng những người đáng tôn trọng, không cung kính những người đáng cung kính, không cúng dường những người đáng cúng dường. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục; nếu người ấy đi đến loài người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy thuộc gia đình hạ liệt. Con đường đưa đến gia đình hạ liệt ấy, này Thanh niên, tức là ngạo nghễ, kiêu mạn, không đảnh lễ những người đáng đảnh lễ,… không tôn trọng những người đáng tôn trọng, không cung kính những người đáng cung kính, không cúng dường những người đáng cúng dường.

(GIA ĐÌNH CAO QUÝ)

Nhưng ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, không có ngạo nghễ quá mạn, đảnh lễ những người đáng đảnh lễ… cúng dường những người đáng cúng dường. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, thiên giới, ở đời. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào thiện thú, thiên giới, ở đời; nếu người ấy đi đến loài người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy thuộc vào gia đình cao quý. Con đường đưa đến gia đình cao quý ấy, này Thanh niên, tức là không có ngạo nghễ quá mạn, đảnh lễ những người đáng đảnh lễ… cúng dường những người đáng cúng dường.

(TRÍ TUỆ YẾU KÉM)

Ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi đi đến Sa-môn hay Bà-la-môn, không hỏi: “Thưa Tôn giả, thế nào là thiện? Thế nào là bất thiện? Thế nào là phạm tội? Thế nào là không phạm tội? Thế nào là cần phải thực hành? Thế nào là không cần phải thực hành? Ta đã làm gì để phải không lợi ích và chịu đau khổ lâu dài? Hay ta đã làm gì để được lợi ích và được an lạc lâu dài? Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu người ấy đi đến loài người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy có trí tuệ yếu kém. Con đường đưa đến trí tuệ yếu kém, này Thanh niên, tức là không học hỏi, không hiểu biết phải trái, không biết thế nào là thiện, thế nào là bất thiện, thế nào là phạm tội, thế nào là không phạm tội, thế nào là cần phải thực hành, thế nào là không cần phải thực hành, ta đã làm gì để phải không lợi ích và chịu đau khổ lâu dài, hay ta đã làm gì để được lợi ích và được an lạc lâu dài.

(TRÍ TUỆ ĐẦY ĐỦ)

Nhưng ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, sau khi đến Sa-môn hay Bà-la-môn, có hỏi: “Thưa Tôn giả, thế nào là thiện? Thế nào là bất thiện? Thế nào là phạm tội? Thế nào là không phạm tội? Thế nào là cần phải thực hành? Thế nào là không cần phải thực hành? Ta đã làm gì để phải không lợi ích và chịu đau khổ lâu dài? Hay ta đã làm gì để được lợi ích và được an lạc lâu dài? Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, thiên giới, ở đời. Nếu người ấy đi đến loài người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy có đầy đủ trí tuệ. Con đường đưa đến đầy đủ trí tuệ, này Thanh niên, là có học hỏi, có thưa hỏi, có hiểu biết thế nào là thiện, thế nào là bất thiện,… thế nào là lợi ích, an lạc lâu dài.

(KẾT LUẬN)

Ở đây, này Thanh niên, con đường đưa đến đoản thọ, dẫn đến đoản thọ, con đường đưa đến trường thọ, dẫn đến trường thọ; con đường đưa đến nhiều bệnh, dẫn đến nhiều bệnh; con đường đưa đến ít bệnh, dẫn đến ít bệnh; con đường đưa đến xấu sắc, dẫn đến xấu sắc; con đường đưa đến đẹp sắc, dẫn đến đẹp sắc; con đường đưa đến quyền thế nhỏ, dẫn đến quyền thế nhỏ; con đường đưa đến quyền thế lớn dẫn đến quyền thế lớn; con đường đưa đến tài sản nhỏ, dẫn đến tài sản nhỏ; con đường đưa đến tài sản lớn, dẫn đến tài sản lớn; con đường đưa đến gia đình hạ liệt, dẫn đến gia đình hạ liệt; con đường đưa đến gia đình cao quý, dẫn đến gia đình cao quý, con đường đưa đến trí tuệ yếu kém, dẫn đến trí tuệ yếu kém; con đường đưa đến đầy đủ trí tuệ, dẫn đến trí tuệ đầy đủ.

Này Thanh niên, các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình, nghĩa là có liệt, có ưu.

Khi nghe nói vậy, thanh niên Subha Todeyyaputta nói với Thế Tôn:

– Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

(HẾT TIỂU KINH NGHIỆP PHÂN BIỆT)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ÐẠI KINH NGHIỆP PHÂN BIỆT
(Mahākammavibhanga. MN. 136)

Việt dịch: HT. Thích Minh Châu

Như vậy ta nghe.

Một thời, Thế Tôn ở Rajagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng sóc.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Samiddhi trú tại một cái cốc trong rừng. Rồi du sĩ ngoại đạo Potaliputta tiêu dao tản bộ, tuần tự du hành, đi đến Tôn giả Samiddhi; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Samiddhi những lời chào đón hỏi thăm. Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, du sĩ ngoại đạo Potaliputta nói với Tôn giả Samiddhi:

– Này Hiền giả Samiddhi, trước mặt Thế Tôn, ta tự thân nghe, tự thân ghi nhận như sau: “Hư vọng là thân nghiệp, hư vọng là khẩu nghiệp, chỉ có ý nghiệp là chân thật. Và có một Thiền chứng (samapatti), do thành tựu Thiền chứng này, sẽ không có cảm giác gì”.

– Này Hiền giả Potaliputta, chớ có nói vậy. Này Hiền giả Potaliputta, chớ có nói vậy. Chớ có phỉ báng Thế Tôn; phỉ báng Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không có nói như vậy.

– Ngài xuất gia đã bao lâu, thưa Hiền giả Samiddhi?

– Không lâu, thưa Hiền giả. Có ba năm.

– Nay ở đây chúng ta còn hỏi các Tỷ-kheo trưởng lão làm gì khi một tân Tỷ-kheo nghĩ rằng cần phải bảo vệ vị Ðạo Sư như vậy. Thưa Hiền giả Samiddhi, khi một người có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp thời người ấy có cảm giác gì?

– Này Hiền giả Potaliputta, khi một người có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp thời người ấy cảm giác khổ đau.

Rồi du sĩ ngoại đạo Potaliputta, không tán thán cũng không phản đối lời nói của Tôn giả Samiddhi. Du sĩ ngoại đạo Potaliputta từ chỗ ngồi đứng dậy rồi ra đi.

Rồi Tôn giả Samiddhi, sau khi du sĩ ngoại đạo Potaliputta ra đi không bao lâu, liền đi đến Tôn giả Ānanda; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Ānanda những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Samiddhi kể lại cho Tôn giả Ānanda tất cả cuộc đàm thoại với du sĩ ngoại đạo Potaliputta. Sau khi nghe nói vậy, Tôn giả Ānanda nói với Tôn giả Samiddhi:

– Này Hiền giả Samiddhi, đây là đề tài một câu chuyện cần phải yết kiến Thế Tôn. Này Hiền giả Samiddhi, chúng ta hãy đi đến Thế Tôn, sau khi đến hãy trình bày lên Thế Tôn rõ ý nghĩa này. Thế Tôn trả lời chúng ta như thế nào, chúng ta hãy như vậy thọ trì.

– Thưa vâng, Hiền giả.

Tôn giả Samiddhi vâng đáp Tôn giả Ānanda. Rồi Tôn giả Ānanda và Tôn giả Samiddhi đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda, trình lên Thế Tôn tất cả câu chuyện giữa Tôn giả Samiddhi với du sĩ ngoại đạo Potaliputta. Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với Tôn giả Ānanda:

– Này Ānanda, Ta chưa từng thấy du sĩ ngoại đạo Potaliputta, thời câu chuyện này từ đâu xảy ra? Này Ānanda, câu hỏi đáng lý phải trả lời phân tích rõ ràng cho du sĩ ngoại đạo Potaliputta, nhưng lại được Samiddhi không hiểu biết này chỉ trả lời theo một chiều.

Khi nghe nói vậy, Tôn giả Udayi bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, nếu đây là ý nghĩa của Tôn giả Samiddhi nói lên, thời cảm giác gì người ấy cảm thọ là cảm giác khổ đau.

Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Ānanda:

– Này Ānanda, hãy xem con đường sai lạc của Udayi này. Này Ānanda, Ta biết rằng, nếu nay Udayi này mở miệng ra đề cập vấn đề gì, ông ấy sẽ mở miệng đề cập một cách không như lý (ayoniso). Này Ānanda, thật sự chỗ khởi thủy của du sĩ ngoại đạo Potaliputta hỏi là về ba cảm thọ. Này Ānanda, nếu Samiddhi này được du sĩ ngoại đạo Potaliputta hỏi như vậy và trả lời như sau: “Này Hiền giả Potaliputta, nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, có khả năng đưa đến lạc thọ, người ấy sẽ cảm giác lạc thọ. Này Hiền giả Potaliputta, nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa đến khổ thọ, người ấy sẽ cảm giác khổ thọ. Này Hiền giả Potaliputta, nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa đến bất khổ bất lạc thọ, người ấy sẽ cảm giác bất khổ bất lạc thọ.” Nếu trả lời như vậy, này Ānanda, thì Samiddhi đã trả lời một cách chơn chánh cho du sĩ ngoại đạo Potaliputta. Và lại nữa, này Ānanda, những du sĩ ngoại đạo, kém học, họ sẽ hiểu được đại phân biệt về nghiệp của Như Lai, này Ānanda, nếu ngươi nghe Như Lai phân tích đại phân biệt về nghiệp.”

– Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời. Bạch Thiện Thệ nay đã đến thời, Thế Tôn hãy phân tích đại phân biệt về nghiệp! Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.

– Vậy này Ānanda, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Tôn giả Ānanda vâng đáp Thế Tôn.

Thế Tôn nói như sau:

– Này Ānanda, có bốn loại người này có mặt ở đời. Thế nào là bốn?

(1) Ở đây, này Ānanda, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham dục, có sân tâm, có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

(2) Nhưng ở đây, này Ānanda, có người sát sanh… có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này.

(3) Ở đây, này Ānanda, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói ác khẩu, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham dục, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này.

(4) Nhưng ở đây, này Ānanda, có người từ bỏ sát sanh… có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

(TRƯỜNG HỢP 1)

Ở đây, này Ānanda, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh tác ý, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, nhờ thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, vị ấy thấy có người ở đây sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham dục, có sân tâm, có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Vị ấy nói như sau: “Thật sự có những ác nghiệp, có quả báo ác hạnh. Và ta đã thấy có người ở đây sát sanh, lấy của không cho… nói hai lưỡi… có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.” Vị ấy nói như sau: “Chắc chắn tất cả mọi người sát sanh, lấy của không cho… có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chơn chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí.” Như vậy, điều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: “Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng.”

(TRƯỜNG HỢP 2)

Ở đây, này Ānanda, có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn,… vị ấy thấy có người sát sanh, lấy của không cho… có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy được sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này.

Vị ấy nói như sau: “Thật sự không có những ác nghiệp, không có quả báo ác hạnh. Và ta đã thấy có người ở đây sát sanh, lấy của không cho… có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này.”

Vị ấy nói như sau: “Chắc chắn tất cả mọi người sát sanh, lấy của không cho… có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều được sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chơn chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí.” Như vậy, điều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: “Chỉ như vậy mới chân thực, ngoài ra đều là hư vọng.”

(TRƯỜNG HỢP 3)

Ở đây, này Ānanda, có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn,… vị ấy thấy có người ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này.

Vị ấy nói như sau: “Thật sự có những thiện nghiệp, có quả báo thiện hạnh. Và ta đã thấy có người ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến sau khi mạng chung, sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này.”

Vị ấy nói như sau: “Chắc chắn tất cả mọi người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chơn chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí.” Như vậy, điều này vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: “Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng.”

(TRƯỜNG HỢP 4)

Ở đây, này Ānanda, có Sa-môn… vị ấy thấy có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến; sau khi mạng chung, người ấy bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

Vị ấy nói như sau: “Thật sự không có những thiện nghiệp, không có quả báo thiện hạnh. Và ta đã thấy có người ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.”

Vị ấy nói như sau: “Chắc chắn tất cả mọi người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí.” Như vậy, điều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: “Chỉ như vậy mới chân thực, ngoài ra đều là hư vọng.”

(QUAN ĐIỂM CỦA NHƯ LAI)

(1) Ở đây, này Ānanda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: “Chắc chắn có ác nghiệp, có quả báo ác nghiệp.” Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy. Vị ấy nói như sau: “Ta đã thấy ở đây có người sát sanh, lấy của không cho… có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, ta thấy người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.” Như vậy, Ta cũng chấp nhận cho vị ấy.

Còn nếu vị ấy nói như sau: “Chắc chắn tất cả những ai sát sanh, lấy của không cho…; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.” Như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Và nếu vị ấy nói như sau: “Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí”. Như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy.

Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: “Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng”. Như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao? Khác như vậy, này Ānanda, là trí của Như Lai về đại phân biệt về nghiệp.

(2) Ở đây, này Ānanda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: “Chắc chắn không có ác nghiệp, không có quả báo ác hạnh.” Như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Và vị ấy nói như sau: “Ta đã thấy ở đây có người sát sanh, lấy của không cho … có tà kiến; sau khi mạng chung, ta thấy người ấy sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này.” Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy.

Còn nếu vị ấy nói như sau: “Chắc chắn tất cả những ai sát sanh, lấy của không cho… tất cả sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này.” Như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Và nếu vị ấy nói như sau: “Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chơn chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí.” Như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy.

Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: “Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng.” Như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao? Khác như vậy, này Ānanda, là trí của Như Lai về đại phân biệt về nghiệp.

(3) Ở đây, này Ānanda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: “Chắc chắn có thiện nghiệp, có quả báo thiện hạnh.” Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy.

Và vị ấy nói như sau: “Ta đã thấy ở đây có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, ta thấy người ấy sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này.” Như vậy, Ta cũng chấp nhận cho vị ấy.

Còn nếu vị ấy nói như sau: “Chắc chắn tất cả những ai từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… tất cả sau khi thân hoại mạng chung; họ đều sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này.” Như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Và nếu vị ấy nói như sau: “Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí.” Như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy.

Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: “Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng.” Như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao? Khác như vậy, này Ānanda, là trí của Như Lai về đại phân biệt về nghiệp.

(4) Ở đây, này Ānanda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: “Chắc chắn không có thiện nghiệp, không có quả báo thiện hạnh.” Như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy.

Và vị ấy nói như sau: “Ta đã thấy ở đây có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, ta thấy người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.” Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy.

Còn nếu vị ấy nói như sau: “Chắc chắn những ai từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến, tất cả sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.” Như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy.

Và nếu vị ấy nói như sau: “Những ai biết như vậy, là họ biết một cách chân chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí.” Như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy.

Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: “Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng.” Như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao? Khác như vậy, này Ānanda, là trí của Như Lai về Ðại phân biệt về nghiệp.

(LÝ DO NGHIỆP QUẢ SAI BIỆT)

Ở đây, này Ānanda, người nào sát sanh, lấy của không cho… có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục… Hoặc là một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm lúc trước, hay một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi thân hoại mạng chung, một tà kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt. Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Và ai ở đây sát sanh, lấy của không cho… có tà kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại hay trong một đời khác.

Ở đây, này Ānanda, người nào sát sanh, lấy của không cho… có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này… Hoặc là một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm lúc trước, hay một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi thân hoại mệnh chung, một chánh kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt; do vậy sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Và ai ở đây sát sanh, lấy của không cho… có tà kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại hay trong một đời khác.

Ở đây, này Ānanda, người nào từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này… Hoặc là một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm từ trước, hay một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một chánh kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt; do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Và ai ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại, hay trong một đời khác.

Ở đây, này Ānanda, người nào từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến; sau khi mạng chung, người ấy bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục… Hoặc là một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm từ trước, hay một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi thân hoại mệnh chung, một tà kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt; do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Và ai ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại hay trong một đời khác.

Như vậy, này Ānanda, có nghiệp vô hữu tợ vô hữu, có nghiệp vô hữu tợ hữu, có nghiệp hữu tợ hữu, có nghiệp hữu tợ vô hữu.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Ānanda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

(HẾT ĐẠI KINH NGHIỆP PHÂN BIỆT)

 

KINH GIỚI PHÂN BIỆT

(Dhātuvibhanga sutta. MN. 140)

Việt dịch: HT. Thích Minh Châu

Như vậy ta nghe.

Một thời, Thế Tôn du hành ở xứ Magadha (Ma-kiệt-đà), đi đến Rajagaha (Vương Xá), đến nhà thợ gốm Bhaggava, sau khi đến, nói với thợ gốm Bhaggava:

– Này Bhaggava, nếu không gì phiền phức cho ngươi, Ta muốn ở tại chỗ này một đêm.

– Bạch Tôn giả, không có gì phiền phức cho con. Ở đây đã có một vị xuất gia đến ở từ trước rồi. Nếu vị ấy thỏa thuận, bạch Ngài, hãy ở lại tùy theo sở thích.

Lúc bấy giờ, Thiện gia nam tử Pukkusati, do lòng tin, y cứ Thế Tôn đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Vị ấy đã đến ở trước tại trú xứ của thợ gốm này. Rồi Thế Tôn đi đến Tôn giả Pukkusati, sau khi đến nói với Pukkusati:

– Này Tỷ-kheo, nếu không gì phiền phức cho ngươi, Ta muốn ở lại trú xứ này một đêm.

– Rộng rãi, này Hiền giả, là trú xứ của người thợ gốm. Tôn giả có thể ở, tùy theo sở thích.

Rồi Thế Tôn sau khi bước vào trú xứ của thợ gốm, trải thảm cỏ vào một bên, ngồi kiết-già, lưng thẳng và an trú niệm trước mặt. Và Thế Tôn trải qua phần lớn đêm ấy, ngồi như vậy. Tôn giả Pukkusati trải qua phần lớn đêm ấy cũng ngồi như vậy. Rồi Thế Tôn suy nghĩ: “Cử chỉ của Thiện gia nam tử này có vẻ tín thành, Ta hãy hỏi vị ấy”. Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Pukkusati:

– Này Tỷ-kheo, ngươi xuất gia, y cứ vào ai? Ai là Ðạo Sư của ngươi? Ngươi chấp nhận pháp của ai?

– Thưa Hiền giả, có Sa môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích Ca. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Thế Tôn Gotama ấy: “Ngài là bậc Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.” Do vậy, con đã xuất gia, y cứ bậc Thế Tôn ấy. Ngài là bậc Ðạo Sư của con, và con chấp thuận pháp của bậc Thế Tôn ấy.

– Này Tỷ-kheo, nay Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ấy ở đâu?

– Thưa Hiền giả, có một thành phố tên là Sāvatthī giữa các quốc độ phía Bắc. Tại đấy, Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác hiện nay đang ở.

– Này Tỷ-kheo, trước đây ngươi đã thấy bậc Thế Tôn ấy chưa? Và nếu thấy, ngươi có nhận ra được không?

– Thưa Hiền giả, trước đây con chưa từng thấy bậc Thế Tôn ấy, và nếu thấy, con không nhận ra được.

Rồi Thế Tôn suy nghĩ: “Thiện gia nam tử này xuất gia y cứ nơi Ta. Vậy Ta hãy thuyết pháp cho Thiện gia nam tử ấy.” Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Pukkusati:

– Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.

– Thưa vâng, Hiền giả.

Tôn giả Pukkusati vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

– Này Tỷ-kheo, một người có sáu giới, sáu xúc xứ, mười tám ý hành, bốn thắng xứ, khi được an trú, vọng tưởng không có chuyển động. Khi vọng tưởng không chuyển động, vị ấy được gọi là một ẩn sĩ tịch tịnh. Chớ có buông lung (xao lãng) trí tuệ, hãy hộ trì chân đế, hãy tăng trưởng huệ thí, hãy tu học tịch tịnh. Ðây là tổng thuyết sáu giới phân biệt.

  1. Này Tỷ-kheo, khi được nói đến: “Người này có sáu giới”, do duyên gì được nói đến như vậy? Ðịa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới. Này Tỷ-kheo, khi được nói đến: “Người này có sáu giới”, chính do duyên này được nói đến như vậy.
  2. Này Tỷ-kheo, khi được nói đến: “Người này có sáu xúc xứ”, do duyên gì được nói đến như vậy? Nhãn xúc xứ, nhĩ xúc xứ, tỷ xúc xứ, thiệt xúc xứ, thân xúc xứ, ý xúc xứ. Khi được nói đến: “Người này có sáu xúc xứ”, chính do duyên này được nói đến như vậy.
  3. Này Tỷ-kheo, khi được nói đến: “Người này có mười tám ý hành”, do duyên gì được nói đến như vậy? Khi con mắt thấy sắc, người ấy chạy theo sắc, chỗ trú xứ của hỷ, người ấy chạy theo sắc, chỗ trú xứ của ưu, người ấy chạy theo sắc, chỗ trú xứ của xả; khi tai nghe tiếng… mũi ngửi hương… lưỡi nếm vị… thân cảm xúc… ý nhận thức pháp, người ấy chạy theo pháp, chỗ trú xứ của hỷ; người ấy chạy theo pháp, chỗ trú xứ của ưu; người ấy chạy theo pháp, chỗ trú xứ của xả. Như vậy, có sáu hỷ hành, sáu ưu hành, sáu xả hành. Khi được nói đến: “Người này có mười tám ý hành”, chính do duyên này được nói đến như vậy.
  4. Này Tỷ-kheo, khi được nói đến: “Người này có bốn thắng xứ”, do duyên gì được nói đến như vậy? Tuệ thắng xứ, đế thắng xứ, huệ thí thắng xứ, tịch tịnh thắng xứ. Khi được nói đến: “Người này có bốn thắng xứ”, chính do duyên này được nói đến như vậy. Khi được nói đến: “Chớ có buông lung (xao lãng) trí tuệ, hãy hộ trì chân đế, hãy tăng trưởng huệ thí (xả), hãy tu học tịch tịnh”, do duyên gì được nói đến như vậy?

Thế nào là không buông lung trí tuệ?

Có sáu giới này: địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới.

Này Tỷ-kheo, thế nào là địa giới? Có nội địa giới và có ngoại địa giới. Và này Tỷ-kheo, thế nào là nội địa giới? Cái gì thuộc nội thân, thuộc cá nhân, kiên cứng, thô phù, bị chấp thủ, như tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bao tử, phân và bất cứ vật gì khác, thuộc nội thân, thuộc cá nhân, kiên cứng, thô phù, bị chấp thủ. Như vậy, này Tỷ-kheo, được gọi là nội địa giới. Những gì thuộc nội địa giới và những gì thuộc ngoại địa giới đều thuộc về địa giới. Ðịa giới ấy phải được quán sát như thật với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta”. Sau khi như thật quán sát địa giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yếm ly đối với địa giới, tâm từ bỏ địa giới.

Và này Tỷ-kheo, thế nào là thủy giới? Có nội thủy giới, có ngoại thủy giới. Và này Tỷ-kheo, thế nào là nội thủy giới? Cái gì thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc nước, thuộc chất lỏng, bị chấp thủ, như mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mũi, nước ở khớp xương, nước tiểu, và bất cứ vật gì khác, thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc nước, thuộc chất lỏng, bị chấp thủ. Như vậy, này Tỷ-kheo, được gọi là nội thủy giới. Những gì thuộc nội thủy giới và những gì thuộc ngoại thủy giới đều thuộc về thủy giới. Thủy giới ấy phải được quán sát như thật với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta”. Sau khi như thật quán sát thủy giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yếm ly đối với thủy giới, tâm từ bỏ thủy giới.

Và này Tỷ-kheo, thế nào là hỏa giới? Có nội hỏa giới, có ngoại hỏa giới. Và này Tỷ-kheo, thế nào là nội hỏa giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc về cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất nóng, bị chấp thủ. Như cái gì khiến cho hâm nóng, khiến cho hủy hoại, khiến cho thiêu cháy, cái gì khiến cho những vật được ăn, uống, nhai, nếm, có thể khéo tiêu hóa, hay tất cả những vật gì khác, thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất nóng, bị chấp thủ. Này Tỷ-kheo, như vậy được gọi là nội hỏa giới. Những gì thuộc nội hỏa giới và những gì thuộc ngoại hỏa giới đều thuộc về hỏa giới. Hỏa giới ấy phải được quán sát như thật với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta.” Sau khi như thật quán sát hỏa giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yếm ly đối với hỏa giới, tâm từ bỏ hỏa giới.

Và này Tỷ-kheo, thế nào là phong giới? Có nội phong giới, có ngoại phong giới. Và này Tỷ-kheo, thế nào là nội phong giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc cá nhân, thuộc gió, thuộc tánh động, bị chấp thủ, như gió thổi lên, gió thổi xuống, gió trong ruột, gió trong bụng dưới, gió thổi ngang các đốt, các khớp, hơi thở vô, hơi thở ra, và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc gió, thuộc tánh động, bị chấp thủ. Này Tỷ-kheo, như vậy được gọi là nội phong giới. Những gì thuộc nội phong giới và những gì thuộc ngoại phong giới đều thuộc về phong giới. Phong giới ấy phải được quán sát như thật với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta”. Sau khi như thật quán sát phong giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yếm ly đối với phong giới, tâm từ bỏ phong giới.

Và này Tỷ-kheo, thế nào là hư không giới? Có nội hư không giới, có ngoại hư không giới. Và này Tỷ-kheo, thế nào là nội hư không giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc cá nhân, thuộc hư không, thuộc hư không tánh, bị chấp thủ, như lỗ tai, lỗ mũi, miệng, do cái gì người ta nuốt, những gì được nhai, được uống, được ăn, được nếm, và tại chỗ mà những gì được nhai, được uống, được ăn, được nếm, được giữ lại, và ngang qua chỗ mà những gì được nhai, được uống, được ăn, được nếm và được tống xuất xuống phần dưới để ra ngoài, và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc hư không, thuộc hư không tánh, bị chấp thủ. Này Tỷ-kheo, như vậy được gọi là nội hư không giới. Những gì thuộc nội hư không giới và những gì thuộc ngoại hư không giới đều thuộc về hư không giới. Hư không giới ấy phải được quán sát như thật với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta”. Sau khi như thật quán sát hư không giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yếm ly đối với hư không giới, tâm từ bỏ hư không giới.

Lại nữa, khi thức còn lại được trong sạch và trong trắng, vị ấy biết được một số sự việc nhờ thức ấy. Vị ấy thức tri được lạc, thức tri được khổ, thức tri được bất khổ bất lạc. Này Tỷ-kheo, duyên lạc xúc, lạc thọ khởi lên. Vị ấy khi đang cảm giác lạc thọ, tuệ tri rằng: “Cảm giác lạc thọ”. Do lạc xúc diệt đi, cảm giác lạc thọ do lạc xúc khởi lên được chấm dứt, vị ấy biết: “Lạc thọ ấy được diệt đi, được chấm dứt”. Này Tỷ-kheo, duyên khổ xúc, khổ thọ khởi lên. Vị ấy khi đang cảm giác khổ thọ, tuệ tri rằng: “Cảm giác khổ thọ”. Do khổ xúc ấy diệt đi, khổ thọ do khổ xúc khởi lên, được chấm dứt, vị ấy biết: “Khổ thọ ấy được diệt đi, được chấm dứt”. Này Tỷ-kheo, duyên bất khổ bất lạc xúc, bất khổ bất lạc thọ khởi lên. Vị ấy khi đang cảm giác bất khổ bất lạc thọ, tuệ tri rằng: “Cảm giác bất khổ bất lạc thọ”. Do bất khổ bất lạc thọ xúc ấy diệt đi, bất khổ bất lạc thọ do bất khổ bất lạc xúc khởi lên được chấm dứt, vị ấy tuệ tri: “Bất khổ bất lạc thọ ấy được diệt đi, được chấm dứt”.

Này Tỷ-kheo, ví như do hai cây que xúc chạm cọ xát, hơi nóng được sanh, ngọn lửa được hiện khởi. Khi hai que ấy được rời nhau, được phân ly, sức nóng được sanh khởi ấy, sức nóng ấy được diệt đi, được chấm dứt. Cũng vậy, này Tỷ-kheo, duyên lạc xúc, lạc thọ khởi lên. Vị ấy khi đang cảm giác lạc thọ, tuệ tri rằng: “Đang cảm giác lạc thọ”. Do lạc xúc ấy diệt đi, lạc thọ do lạc xúc khởi lên được chấm dứt, vị ấy tuệ tri: “Lạc thọ ấy được diệt đi, được chấm dứt”. Này Tỷ-kheo, duyên khổ xúc khổ thọ khởi lên. Vị ấy khi đang cảm giác khổ thọ tuệ tri rằng: “Đang cảm giác khổ thọ”. Do khổ xúc ấy diệt đi, khổ thọ do khổ xúc khởi lên được chấm dứt, vị ấy biết: “Khổ thọ ấy được diệt đi, được chấm dứt”. Này Tỷ-kheo, duyên bất khổ bất lạc xúc, bất khổ bất lạc thọ khởi lên. Vị ấy khi đang cảm giác bất khổ bất lạc thọ, tuệ tri rằng: “Cảm giác bất khổ bất lạc thọ”. Do bất khổ bất lạc thọ xúc ấy diệt đi, bất khổ bất lạc thọ do bất khổ bất lạc xúc khởi lên, được chấm dứt, vị ấy tuệ tri: “Bất khổ bất lạc thọ ấy được diệt đi, được chấm dứt”.

Lại nữa, xả còn lại được trong sạch, trong trắng, nhu nhuyến, dễ uốn nắn, chói sáng. Ví như, này Tỷ-kheo, một người thợ vàng thiện xảo hay người đệ tử thợ vàng sửa soạn lò đúc; sau khi sửa soạn lò đúc xong, người ấy đốt lửa miệng lò đúc; sau khi đốt lửa miệng lò đúc, người ấy dùng kềm kẹp lấy vàng và đặt vàng vào trong miệng lò; rồi thỉnh thoảng người ấy thổi trên ấy, thỉnh thoảng người ấy rưới nước trên ấy, thỉnh thoảng người ấy quán sát thật kỹ… vàng ấy đã trở thành sáng sủa, thanh tịnh, gột sạch, các uế tạp được đoạn trừ, các tỳ vết được trừ sạch, nhu nhuyến, dễ uốn nắn và chói sáng… và nếu người ấy muốn làm đồ trang sức nào, hoặc vòng nhẫn, hoặc bông tai, hoặc vòng cổ, hoặc vòng hoa vàng, thời vàng ấy có thể dùng vào mục đích ấy. Cũng vậy, này Tỷ-kheo, lại nữa, xả còn lại được trong sạch, trong trắng, nhu nhuyến, dễ uốn nắn, chói sáng.

Người ấy tuệ tri như sau: “Nếu ta tập trung xả này thanh tịnh như vậy, trong trắng như vậy vào Hư không vô biên xứ, và tu tập tâm ta tùy theo pháp ấy, thời xả này y cứ vào đấy, chấp thủ tại đấy, được an trú nơi ta trong một thời gian dài. Nếu ta tập trung xả này thanh tịnh như vậy, trong trắng như vậy vào Thức vô biên xứ, và tu tập tâm của ta tùy theo pháp ấy, thời xả này y cứ vào đấy, chấp thủ tại đấy, được an trú nơi ta trong một thời gian dài. Nếu ta tập trung xả này thanh tịnh như vậy, trong trắng như vậy vào Vô sở hữu xứ, và tu tập tâm ta tùy theo pháp ấy, thời xả này y cứ vào đấy, chấp thủ tại đấy, được an trú nơi ta trong một thời gian dài. Nếu ta tập trung xả này thanh tịnh như vậy, trong trắng như vậy vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và tu tập tâm của ta tùy theo pháp ấy, thời xả này y cứ vào đấy, chấp thủ tại đấy, được an trú nơi ta trong một thời gian dài”.

Người ấy tuệ tri như sau: “Nếu ta tập trung xả này thanh tịnh như vậy, trong trắng như vậy vào Hư không vô biên xứ… Thức vô biên xứ… Vô sở hữu xứ… Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và tu tập tâm của ta tùy theo pháp ấy, thời xả ấy trở thành pháp hữu vi”. Vị ấy không tác thành, không suy tưởng đến hữu hay phi hữu. Do không tác thành, không suy tưởng đến hữu hay phi hữu, vị ấy không chấp thủ một sự vật gì ở đời; chấp thủ không quấy rối vị ấy; do chấp thủ không quấy rối vị ấy, vị ấy tự chứng Niết-bàn, và vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những điều nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái như thế này nữa”.

Nếu vị ấy cảm giác lạc thọ, vị ấy tuệ tri: “Thọ ấy là vô thường”; vị ấy tuệ tri: “Không nên đắm trước”; vị ấy tuệ tri: “Không phải là đối tượng để hoan hỷ”. Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, vị ấy tuệ tri: “Thọ ấy là vô thường”; vị ấy tuệ tri: “Không nên đắm trước”; vị ấy tuệ tri: “Không phải là đối tượng để hoan hỷ”. Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, vị ấy tuệ tri: “Thọ ấy là vô thường”; và vị ấy tuệ tri: “Không nên đắm trước”; và vị ấy tuệ tri: “Không phải là đối tượng để hoan hỷ”. Nếu cảm giác lạc thọ, không có hệ phược, vị ấy cảm giác thọ ấy. Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, không có hệ phược, vị ấy cảm giác thọ ấy. Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, không có hệ phược, vị ấy cảm giác thọ ấy. Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ với thân là tối hậu, vị ấy tuệ tri: “Cảm giác một cảm thọ với thân là tối hậu”. Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ với sinh mạng là tối hậu, vị ấy tuệ tri: “Cảm giác một cảm thọ với sinh mạng là tối hậu”; và vị ấy tuệ tri: “Sau khi thân hoại mạng chung, mọi cảm thọ hoan hỷ ở nơi đây trở thành thanh lương”.

Ví như, này Tỷ-kheo, như ngọn đèn dầu được cháy đỏ nhờ dầu và tim. Khi dầu và tim diệt tận, và không có vật liệu khác được đem đến, ngọn đèn dầu ấy bị diệt tắt… Cũng vậy, này Tỷ-kheo, khi cảm giác một cảm thọ lấy thân làm tối hậu, vị ấy tuệ tri: “Cảm giác một cảm thọ lấy thân làm tối hậu”. Khi cảm giác một cảm thọ lấy sinh mạng làm tối hậu, vị ấy tuệ tri: “Cảm giác một cảm thọ lấy sinh mạng làm tối hậu”; và vị ấy tuệ tri: “Sau khi thân hoại mạng chung, mọi cảm thọ hoan hỷ ở nơi đây trở thành thanh lương”.

Do vậy, Tỷ-kheo thành tựu như vậy là thành tựu với tối thắng Tuệ thắng xứ này. Vì rằng, này Tỷ-kheo, như vậy là tối thắng Thánh tuệ, nghĩa là trí, biết sự đoạn tận mọi đau khổ.

Sự giải thoát ấy của vị này, an trú vào chân đế, không bị dao động. Này Tỷ-kheo, cái gì có thể đưa đến hư vọng, thời thuộc về hư vọng. Cái gì không thể đưa đến hư vọng, thời thuộc về chân đế, Niết-bàn. Do vậy, vị Tỷ-kheo thành tựu như vậy là thành tựu với tối thắng Đế thắng xứ này. Vì rằng, này Tỷ-kheo, như vậy là tối thắng Thánh đế, tức là Niết-bàn, không có thể đưa đến hư vọng.

Và những sanh y vô trí thức trước của nó đã được đầy đủ, đã được thành tựu. Chúng được đoạn tận, chặt tận gốc rễ, làm cho như thân cây Tala, không thể hiện hữu nữa trong tương lai, không có khả năng sanh khởi nữa. Do vậy, một Tỷ-kheo thành tựu như vậy là thành tựu với tối thắng Xả thắng xứ này. Vì rằng, như vậy là tối thắng Thánh huệ thí, tức là sự xả ly tất cả sanh y.

tham ái vô trí thức trước của nó, thuộc tham dục, tham nhiễm; pháp ấy được đoạn tận, chặt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala, không thể hiện hữu nữa trong tương lai, không có khả năng sanh khởi nữa.

phẫn nộ vô trí thức trước của nó, thuộc sân hận, thuộc tội quá; pháp ấy được đoạn tận, cắt tận gốc rễ, làm cho như thân cây Tala, không thể hiện hữu nữa trong tương lai, không có khả năng sanh khởi nữa.

vô minh vô trí thức trước của nó, thuộc si mê, thuộc tội quá; pháp ấy được đoạn tận, cắt tận gốc rễ, làm cho như thân cây tala, không thể hiện hữu trong tương lai, không có khả năng sanh khởi nữa.

Do vậy, Tỷ-kheo thành tựu như vậy là thành tựu tối thắng Tịch tịnh thắng xứ. Này Tỷ-kheo, như vậy là tối thắng Thánh tịch tịnh, tức là sự tịch tịnh tham, sân, si.

Khi được nói đến: “Chớ có buông lung (xao lãng) trí tuệ, hãy hộ trì chân đế, hãy làm cho sung mãn huệ thí, hãy tu học tịch tịnh”, chính do duyên này được nói đến như vậy.

Khi được nói đến: “Khi được an trú, vọng tưởng không có chuyển động. Khi vọng tưởng không chuyển động, vị ấy được gọi là một ẩn sĩ tịch tịnh”, do duyên gì được nói đến như vậy?

Này Tỷ-kheo, “Ta là”, như vậy là vọng tưởng. “Ta là cái này”, như vậy là vọng tưởng. “Ta sẽ là”, như vậy là vọng tưởng. “Ta sẽ không là”, như vậy là vọng tưởng. “Ta sẽ có sắc”, như vậy là vọng tưởng. “Ta sẽ không có sắc”, như vậy là vọng tưởng. “Ta sẽ có tưởng”, như vậy là vọng tưởng. “Ta sẽ không có tưởng”, như vậy là vọng tưởng. “Ta sẽ không có tưởng, không không có tưởng”, như vậy là vọng tưởng. Vọng tưởng, này Tỷ-kheo, là bệnh, vọng tưởng là cục bướu, vọng tưởng là mũi tên. Khi vượt khỏi mọi vọng tưởng, vị ẩn sĩ được gọi là tịch tịnh. Nhưng vị ẩn sĩ tịch tịnh không sanh, không già, không có dao động, không có hy cầu, vì không có cái gì do đó có thể sanh. Không sanh, làm sao già được? Không già, làm sao chết được? Không chết, làm sao dao động được? Không dao động, làm sao hy cầu?

Khi được nói đến: “Khi được an trú, vọng tưởng không có chuyển động; khi vọng tưởng không chuyển động, vị ấy được gọi là một ẩn sĩ tịch tịnh”, do chính duyên này được nói đến như vậy. Này Tỷ-kheo, hãy thọ trì sự phân biệt tóm tắt của Ta về sáu giới.

Rồi Tôn giả Pukkusati nghĩ như sau: “Thật sự bậc Ðạo sư đã đến với ta! Thật sự bậc Thiện Thệ đã đến với ta! Thật sự bậc Chánh Ðẳng Giác đã đến với ta!” Rồi Tôn giả từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vào một bên vai, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, và bạch Thế Tôn:

– Con đã rơi vào một lỗi lầm, bạch Thế Tôn, vì rằng, ngu đần, si mê và không khéo léo như con, đã nghĩ rằng con có thể xưng hô với Thế Tôn với danh từ Hiền giả. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn chấp nhận cho con lỗi lầm ấy là một lỗi lầm để con có thể ngăn ngừa trong tương lai.

– Này Tỷ-kheo, thật vậy, ngươi đã rơi vào một lỗi lầm, vì rằng ngu đần, si mê và không khéo léo, vì ngươi đã nghĩ rằng ngươi có thể xưng hô với Ta với danh từ Hiền giả. Nhưng này Tỷ-kheo, nếu ngươi thấy một lỗi lầm là một lỗi lầm, và như Pháp phát lộ, thời Ta chấp nhận lỗi lầm ấy cho ngươi. Vì rằng, này Tỷ-kheo, đây là sự tăng ích trong giới luật của bậc Thánh, khi nào một ai thấy lỗi lầm là một lỗi lầm, như Pháp phát lộ, để ngăn ngừa trong tương lai.

– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy cho con được thọ cụ túc giới trước mặt Thế Tôn.

– Này Tỷ-kheo, ngươi có đủ y bát không?

– Bạch Thế Tôn, con không có đủ y bát.

– Này Tỷ-kheo, các Như Lai không có trao cụ túc giới cho ai không đủ y bát.

Rồi Tôn giả Pukkusati sau khi hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi ra đi tìm y bát. Trong khi Tôn giả Pukkusati đi tìm y bát, một con bò cuồng chạy, đoạt mất mạng sống của Tôn giả.

Rồi một số đông Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các vị Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Thiện gia nam tử Pukkusati được Thế Tôn thuyết giảng một cách vắn tắt đã mệnh chung. Sanh thú của vị ấy như thế nào, đời sống tương lai như thế nào?

– Này các Tỷ-kheo, thật là bậc Hiền giả, thiện gia nam tử Pukkusati, đã chấp hành Chánh pháp và tùy pháp. Thiện gia nam tử Pukkusati không có phiền nhiễu Ta với những kiện tụng về Chánh pháp. Này các Tỷ-kheo, Thiện gia nam tử Pukkusati, sau khi đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh và từ chỗ ấy nhập Niết-bàn, không phải trở lui đời ấy nữa.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

(HẾT KINH GIỚI PHÂN BIỆT)

 

KINH PHÂN BIỆT VỀ SỰ THẬT
(Saccavibhanga sutta. MN. 141)

Như vậy ta nghe.

Một thời, Thế Tôn ở Baranasi, Isipatana, tại Migadaya. Tại đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo”.

– Bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

– Vô thượng Pháp luân đã được Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác chuyển vận ở vườn Lộc Uyển, chỗ chư Tiên đọa, tại Ba-la-nại. Không một Sa-môn, Bà-là-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên hay một ai ở đời có thể chận đứng, chuyển vận ngược lại, tức là sự khai thị, tuyên thuyết, thi thiết, kiến lập, mở rộng, phân biệt, hiển lộ Bốn Thánh-Đế.

Thế nào là bốn? Sự khai thị, tuyên thuyết, thi thiết, kiến lập, mở rộng, phân biệt, hiển lộ Khổ Thánh đế; sự khai thị, tuyên thuyết… về Tập khổ Thánh đế; sự khai thị, tuyên thuyết… về Khổ diệt Thánh đế; sự khai thị, tuyên thuyết… về Khổ diệt đạo Thánh đế. Vô thượng Pháp luân, này các Tỷ-kheo, đã được Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác chuyển vận ở vườn Lộc Uyển, chỗ chư Tiên đọa, tại Ba la nại. Không một Sa-môn, Bà-la-môn… hay một ai ở đời có thể chận đứng, chuyển vận ngược lại, tức là sự khai thị, tuyên thuyết, thi thiết, kiến lập, mở rộng, phân biệt, hiển lộ Bốn Thánh-Đế.

Này các Tỷ-kheo, hãy thân cận Sāriputta và Moggallana, hãy gần gũi Sāriputta và Moggallana. Các vị ấy là những Tỷ-kheo hiền trí (pandita), là những vị sách tấn các đồng Phạm hạnh. Như một sanh mẫu, này các Tỷ-kheo, như vậy là Sāriputta! Như một dưỡng mẫu, như vậy là Moggalana! Này các Tỷ-kheo, Sāriputta hướng dẫn đến quả Dự lưu, còn Moggallana hướng dẫn đến tối thượng nghĩa. Này Tỷ-kheo, Sāriputta có thể khai thị, tuyên thuyết, thi thiết, kiến lập, mở rộng, phân biệt hiển lộ một cách rộng rãi Bốn Thánh-Đế.

Thế Tôn nói như vậy, nói như vậy xong, Đức Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tinh xá. Tại đấy, Tôn giả Sāriputta, sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, liền gọi các Tỷ-kheo: “Này chư Hiền.” – “Thưa vâng, Hiền giả.”  Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sāriputta. Tôn giả Sāriputta nói như sau:

– Chư Hiền, Vô thượng Pháp luân đã được Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác chuyển vận ở vườn Lộc Uyển, … Không một Sa-môn, Bà-la-môn… hay một ai ở đời có thể chận đứng, chuyển vận ngược lại, tức là sự khai thị,… hiển lộ về Khổ diệt đạo Thánh-Đế.

Và này chư Hiền, thế nào là Khổ Thánh đế? Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ; cầu không được là khổ. Tóm lại, Năm thủ uẩn là khổ.

Thế nào là sanh? – Mỗi mỗi hạng chúng sanh, trong từng giới loại, sự xuất sản, xuất sanh, xuất thành, tái sanh của chúng, sự xuất hiện các uẩn, sự hoạch đắc các căn. Như vậy gọi là sanh.

Thế nào là già? – Mỗi mỗi hạng chúng sanh, trong từng giới loại, sự niên lão, sự hủ hoại, trạng thái rụng răng, trạng thái tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ rút ngắn, các căn hủy hoại. Như vậy gọi là già.

Thế nào là chết? – Mỗi mỗi hạng chúng sanh trong từng giới loại, sự tạ thế, sự từ trần, thân hoại, sự diệt vong, sự chết, sự tử vong, thời đã đến, các uẩn đã tận diệt, sự vất bỏ tử thi. Như vậy gọi là chết.

Thế nào là sầu? – Với những ai gặp phải tai nạn này hay tai nạn khác; với những ai cảm thọ sự đau khổ này hay sự đau khổ khác, sự sầu của người ấy. Như vậy gọi là sầu.

Thế nào là bi? – Với những ai gặp phải tai nạn này hay tai nạn khác; với những ai cảm thọ sự đau khổ này hay sự đau khổ khác, sự bi ai, sự bi thảm, sự than van, sự than khóc, sự bi thán, sự bi thống của người ấy. Như vậy gọi là bi.

Thế nào là khổ?  Sự đau khổ về thân, sự không sảng khoái về thân, sự đau khổ do thân cảm thọ, sự không sảng khoái do thân cảm thọ. Như vậy gọi là khổ.

Thế nào là ưu? Sự đau khổ về tâm, sự không sảng khoái về tâm, sự đau khổ do tâm cảm thọ, sự không sảng khoái do tâm cảm thọ. Như vậy gọi là ưu.

Thế nào là não?  Với những ai gặp tai nạn này hay tai nạn khác; với những ai cảm thọ sự đau khổ này hay sự đau khổ khác, sự áo não, sự bi não, sự thất vọng, sự tuyệt vọng của người ấy. Như vậy gọi là não.

Thế nào là cầu bất đắc khổ? Chúng sanh bị sanh chi phối, khởi sự mong cầu: “Mong rằng ta khỏi bị sanh chi phối! Mong rằng ta khỏi phải đi thác sanh”. Lời mong cầu ấy không được thành tựu. Như vậy gọi là cầu bất đắc khổ. Này chư Hiền, chúng sanh bị già chi phối… chúng sanh bị bệnh chi phối… chúng sanh bị chết chi phối… chúng sanh bị sầu, bi, khổ, ưu, não chi phối, khởi sự mong cầu: “Mong rằng ta khỏi bị sầu, bi, khổ, ưu, não chi phối!” Mong rằng ta khỏi đương chịu sầu, bi, khổ, ưu não!” Lời mong cầu ấy không được thành tựu. Như vậy gọi là cầu bất đắc khổ.

Như thế nào là “Năm thủ uẩn là khổ”? Như sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Như vậy gọi là “Năm thủ uẩn là khổ”.

Thế nào là Khổ tập Thánh đế? Sự tham ái đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia; như dục ái, hữu ái, vô hữu ái. Như vậy gọi là Khổ tập Thánh đế.

Thế nào là Khổ diệt Thánh đế? – Sự diệt tận không còn luyến tiếc tham ái ấy, sự xả ly, sự khí xả, sự giải thoát, sự vô nhiễm (tham ái ấy). Như vậy gọi là Khổ diệt Thánh đế.

Này chư Hiền, thế nào là Khổ diệt đạo Thánh đế? Ðó là Tám Thánh Đạo, tức là Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.

Thế nào là Chánh tri kiến? – Tri kiến về Khổ, tri kiến về Khổ tập, tri kiến về Khổ diệt, tri kiến về Khổ diệt đạo. Này chư Hiền, như vậy gọi là Chánh tri kiến.

Thế nào là Chánh tư duy? Tư duy về ly dục, tư duy về vô sân, tư duy về bất hại. Như vậy gọi là Chánh tư duy.

Thế nào là Chánh ngữ? Tự chế không nói láo, tự chế không nói hai lưỡi, tự chế không ác khẩu, tự chế không nói lời phù phiếm. Như vậy gọi là Chánh ngữ.

Thế nào là Chánh nghiệp? – Tự chế không sát sanh, tự chế không trộm cắp, tự chế không tà dâm. Như vậy gọi là Chánh nghiệp.

Thế nào là Chánh mạng? Ở đây vị Thánh đệ tử từ bỏ tà mạng, sinh sống bằng chánh mạng. Như vậy gọi là Chánh mạng.

Thế nào là Chánh tinh tấn? Ở đây Tỷ-kheo, đối với các ác, bất thiện pháp chưa sanh, khởi lên ý muốn không cho sanh khởi; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Ðối với các ác, bất thiện pháp đã sanh, khởi lên ý muốn trừ diệt; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Ðối với các thiện pháp chưa sanh, khởi lên ý muốn khiến cho sanh khởi; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Ðối với các thiện pháp đã sanh khởi, khởi lên ý muốn khiến cho an trú, không cho băng hoại, khiến cho tăng trưởng, phát triển, viên mãn; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Như vậy gọi là Chánh tinh tấn.

Thế nào là Chánh niệm? Ở đây, Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời… quán thọ trên các cảm thọ… quán tâm trên các tâm… quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời. Như vậy gọi là Chánh niệm.

Thế nào là Chánh định? Ở đây, Tỷ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Vị Tỷ-kheo ấy diệt tầm, diệt tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Tỷ-kheo ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Như vậy gọi là Chánh định. Này chư Hiền, như vậy gọi là Khổ diệt đạo Thánh đế.

Chư Hiền, Vô thượng Pháp luân đã được Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác chuyển vận ở vườn Lộc Uyển, chỗ chư Tiên đọa, tại Ba-la-nại, Không một Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên hay một ai ở đời có thể chuyển vận ngược lại, tức là sự khai thị, tuyên thuyết, thi thiết, kiến lập, mở rộng, phân biệt, hiển lộ Bốn Thánh Đế.

Tôn giả Sāriputta thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Sāriputta dạy.

(HẾT KINH PHÂN BIỆT VỀ SỰ THẬT)

 

KINH GIÁO GIỚI CẤP CÔ ÐỘC
(Anāthapiṇḍikovàda sutta. MN. 143)

Như vậy ta nghe.

Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá Vệ), tại Jetavana (Kỳ Đà Lâm), vườn Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc).

Lúc bấy giờ, Cư sĩ Cấp Cô Độc bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Rồi cư sĩ Cấp Cô Độc gọi một người và nói:

– Hãy đến đây, này bạn. Hãy đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, nhân danh ta, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và bạch như sau: “Bạch Thế Tôn, Cư sĩ Cấp Cô Độc bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Cấp Cô Độc xin cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn.” Rồi đi đến Tôn giả Sāriputta (Xá-lợi-phất), sau khi đến, nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Sāriputta và thưa như sau: “Thưa Tôn giả, Cư sĩ Cấp Cô Độc bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Cấp Cô Độc xin cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Sāriputta và thưa như sau: “Thưa Tôn giả, lành thay, nếu Tôn giả Sāriputta vì lòng từ mẫn, đi đến trú xứ của cư sĩ Cấp Cô Độc.”

– Thưa vâng, Tôn giả.

Người ấy vâng đáp cư sĩ Cấp Cô Độc, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ chân Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, người ấy bạch Thế Tôn:

Bạch Thế Tôn, Cư sĩ Cấp Cô Độc bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Xin cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn.

Rồi người ấy đi đến Tôn giả Sāriputta, sau khi đến đảnh lễ Tôn giả Sāriputta rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, người ấy thưa với Tôn giả Sāriputta:

Thưa Tôn giả, cư sĩ bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, xin cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Sāriputta và thưa như sau: “Thưa Tôn giả, lành thay, nếu Tôn giả Sāriputta vì lòng từ mẫn đi đến trú xứ của cư sĩ Cấp Cô Độc.”

Tôn giả Sāriputta im lặng nhận lời. Rồi Tôn giả Sariputta đắp y, cầm y bát, cùng với Tôn giả Ānanda là thị giả, đi đến trú xứ của cư sĩ Cấp Cô Độc, sau khi đến liền ngồi lên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Tôn giả Sāriputta nói với cư sĩ Cấp Cô Độc:

– Này Cư sĩ, ta mong rằng ngươi có thể kham nhẫn. Ta mong rằng ngươi có thể chịu đựng. Ta mong rằng khổ thọ được giảm thiểu, không gia tăng, sự giảm thiểu được rõ rệt, không có gia tăng.

Cư sĩ Cấp Cô Độc thưa rằng: “Thưa Tôn giả Sāriputta, con không có thể kham nhẫn, con không có thể chịu đựng. Sự khổ thống của con gia tăng, không có giảm thiểu; sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu. Thưa Tôn giả Sāriputta, ví như một người lực sĩ chém đầu (một người khác) với một thanh kiếm sắc bén; cũng vậy, thưa Tôn giả Sāriputta, những ngọn gió kinh khủng thổi lên đau nhói trong đầu con. Thưa Tôn giả Sāriputta, con không có thể kham nhẫn, con không có thể chịu đựng. Những khổ thống của con gia tăng, không có giảm thiểu; sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu. Thưa Tôn giả Sāriputta, như một người lực sĩ lấy một dây nịt bằng da cứng quấn tròn quanh đầu rồi xiết chặt; cũng vậy, thưa Tôn giả Sāriputta, con cảm thấy bị đau đầu một cách kinh khủng. Thưa Tôn giả Sāriputta, con không có thể kham nhẫn, con không có thể chịu đựng. Những khổ thống của con gia tăng, không có giảm thiểu; sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu. Thưa Tôn giả Sāriputta, như một người đồ tể thiện xảo hay đệ tử người đồ tể cắt ngang bụng với một con dao cắt thịt bò sắc bén; cũng vậy, thưa Tôn giả Sāriputta, một ngọn gió kinh khủng cắt ngang bụng của con. Thưa Tôn giả Sāriputta, con không có thể kham nhẫn, con không có thể chịu đựng. Những khổ thống của con gia tăng, không có giảm thiểu; sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu. Thưa Tôn giả Sāriputta, ví như hai người lực sĩ, sau khi nắm cánh tay của một người yếu hơn, nướng người ấy, đốt người ấy trên một hố than hừng, cũng vậy, thưa Tôn giả Sāriputta, một sức nóng kinh khủng khởi lên trong thân con. Thưa Tôn giả Sāriputta, con không có thể kham nhẫn, con không có thể chịu đựng. Những thống khổ của con gia tăng, không có giảm thiểu; sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu.”

Tôn giả Sāriputta nói như sau:

(SÁU CĂN)

– Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau:

“Ta sẽ không chấp thủ con mắt, và ta sẽ không có thức y cứ vào con mắt.” Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.

“Ta sẽ không chấp thủ tai, và ta sẽ không có thức y cứ vào tai.” “Ta sẽ không chấp thủ mũi, và ta sẽ không có thức y cứ vào mũi.” “Ta sẽ không chấp thủ lưỡi, và ta sẽ không có thức có y cứ vào lưỡi.” “Ta sẽ không chấp thủ thân, và ta sẽ không có thức y cứ vào thân.” “Ta sẽ không chấp thủ ý, và ta sẽ không có thức y cứ vào ý.” Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.

(SÁU TRẦN)

– Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau:

“Ta sẽ không chấp thủ hình sắc, và ta sẽ không có thức y cứ vào hình sắc.” “Ta sẽ không chấp thủ tiếng, và ta sẽ không có thức y cứ vào tiếng.” “Ta sẽ không chấp thủ hương, và ta sẽ không có thức y cứ vào hương.” “Ta sẽ không chấp thủ vị, và ta sẽ không có thức y cứ vào vị.” “Ta sẽ không chấp thủ xúc, và ta sẽ không có thức y cứ vào xúc.” “Ta sẽ không chấp thủ pháp, và ta sẽ không có thức y cứ vào pháp.” Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.

(SÁU THỨC)

– Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau:

“Ta sẽ không chấp thủ nhãn thức, và ta sẽ không có thức y cứ vào nhãn thức.” “Ta sẽ không chấp thủ nhĩ thức, và ta sẽ không có thức y cứ vào nhĩ thức.” “Ta sẽ không chấp thủ tỷ thức, và ta sẽ không có thức y cứ vào tỹ thức.” “Ta sẽ không chấp thủ thiệt thức, và ta sẽ không có thức y cứ vào thiệt thức.” “Ta sẽ không chấp thủ thân thức, và ta sẽ không có thức y cứ vào thân thức.” “Ta sẽ không chấp thủ ý thức, và ta sẽ không có thức y cứ vào ý thức.” Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.

(SÁU XÚC)

– Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau:

“Ta sẽ không chấp thủ nhãn xúc, và ta sẽ không có thức y cứ vào nhãn xúc.” “Ta sẽ không chấp thủ nhĩ xúc, và ta sẽ không có thức y cứ vào nhĩ xúc.” “Ta sẽ không chấp thủ tỹ xúc, và ta sẽ không có thức y cứ vào tỹ xúc.” “Ta sẽ không chấp thủ thiệt xúc, và ta sẽ không có thức y cứ vào thiệt xúc.” “Ta sẽ không chấp thủ thân xúc, và ta sẽ không có thức y cứ vào thân xúc.” “Ta sẽ không chấp thủ ý xúc, và ta sẽ không có thức y cứ vào ý xúc.” Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.

(SÁU THỌ)

– Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau:

“Ta sẽ không chấp thủ thọ do nhãn xúc sanh khởi, và ta sẽ không có thức y cứ vào thọ do nhãn xúc sanh khởi.” “Ta sẽ không chấp thủ thọ do nhĩ xúc sanh khởi, và ta sẽ không có thức y cứ vào thọ do nhĩ xúc sanh khởi.” “Ta sẽ không chấp thủ thọ do tỷ xúc sanh khởi, và ta sẽ không có thức y cứ vào thọ do tỹ xúc sanh khởi.” “Ta sẽ không chấp thủ thọ do thiệt xúc sanh khởi, và ta sẽ không có thức y cứ vào thọ do thiệt xúc sanh khởi.” “Ta sẽ không chấp thủ thọ do thân xúc sanh khởi, và ta sẽ không có thức y cứ vào thọ do thân xúc sanh khởi.” “Ta sẽ không chấp thủ thọ do ý xúc sanh khởi, và ta sẽ không có thức y cứ vào thọ do ý xúc sanh khởi.” Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.

(SÁU ĐẠI)

– Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau:

“Ta sẽ không chấp thủ địa giới, và ta sẽ không có thức y cứ vào địa giới.” “Ta sẽ không chấp thủ thủy giới, và ta sẽ không có thức y cứ vào thủy giới.” “Ta sẽ không chấp thủ hỏa giới, và ta sẽ không có thức y cứ vào hỏa giới.” “Ta sẽ không chấp thủ phong giới, và ta sẽ không có thức y cứ vào phong giới.” “Ta sẽ không chấp thủ hư không giới, và ta sẽ không có thức y cứ vào hư không giới.” “Ta sẽ không chấp thủ thức giới, và ta sẽ không có thức y cứ vào thức giới.” Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.

(NĂM UẨN)

– Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau:

“Ta sẽ không chấp thủ sắc, và ta sẽ không có thức y cứ vào sắc.” “Ta sẽ không chấp thủ thọ, và ta sẽ không có thức y cứ vào thọ.” “Ta sẽ không chấp thủ tưởng, và ta sẽ không có thức y cứ vào tưởng.” “Ta sẽ không chấp thủ hành, và ta sẽ không có thức y cứ vào hành.” “Ta sẽ không chấp thủ thức, và ta sẽ không có thức y cứ vào thức giới.” Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.

(TỨ KHÔNG XỨ)

– Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau:

“Ta sẽ không chấp thủ Hư không vô biên xứ, và ta sẽ không có thức y cứ vào Hư không vô biên xứ.” “Ta sẽ không chấp thủ Thức vô biên xứ, và ta sẽ không có thức y cứ vào Thức vô biên xứ.” “Ta sẽ không chấp thủ Vô sở hữu xứ, và ta sẽ không có thức y cứ vào Vô sở hữu xứ.” “Ta sẽ không chấp thủ Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và ta sẽ không có thức y cứ vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ.” Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.

(THẾ GIỚI)

– Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau:

“Ta sẽ không chấp thủ thế giới ở đây, và ta sẽ không có thức y cứ vào thế giới ở đây.” “Ta sẽ không chấp thủ thế giới khác, và ta sẽ không có thức y cứ vào thế giới khác.” Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.

(SỞ TRI, SỞ CẦU)

– Do vậy, này Cư sĩ, hãy học tập như sau:

“Ta sẽ không chấp thủ những gì được thấy, được nghe, được cảm thọ, được nhận thức, được hy cầu, được tư sát với ý, và ta sẽ không có thức y cứ vào những gì được thấy, được nghe, được cảm thọ, được nhận thức, được hy cầu, được tư sát với ý”. Này Cư sĩ, hãy học tập như vậy.

Khi nghe nói vậy, cư sĩ Cấp Cô Độc khóc và chảy nước mắt.

Rồi Tôn giả Ānanda nói với cư sĩ Cấp Cô Độc:

– Này Cư sĩ, người đang gượng lên mà sống, hay đang chìm xuống (cõi chết)?

– Thưa Tôn giả Ānanda, con không gượng lên mà sống, con đang chìm xuống. Dầu cho bậc Ðạo sư được con hầu hạ đã lâu, và dầu con đã từng gần gũi các vị Tỷ-kheo tu tập ý lực, con chưa từng được nghe một thời thuyết pháp như vậy.

– Này Cư sĩ, thuyết pháp như vậy không nói cho các hàng cư sĩ mặc áo trắng. Này Cư sĩ, thuyết pháp như vậy nói cho các hàng xuất gia.

– Vậy thưa Tôn giả Sāriputta, hãy thuyết pháp như vậy cho hàng cư sĩ mặc áo trắng. Thưa Tôn giả Sāriputta, có những Thiện gia nam tử sanh ra với cấu uế không nhiều, nếu không được nghe pháp, sẽ bị đọa lạc; nhưng nếu được nghe, họ có thể biết được Chánh Pháp.

Rồi Tôn giả Sāriputta và Tôn giả Ānanda sau khi giảng dạy cho cư sĩ Cấp Cô Độc với bài thuyết giảng, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.

Rồi cư sĩ Cấp Cô Độc, sau khi Tôn giả Sāriputta và Tôn giả Ānanda ra đi không bao lâu, thân hoại mạng chung, và sau khi thân hoại mạng chung, liền sanh lên cõi Tusita (Ðâu Suất).

Rồi Thiên tử Cấp Cô Độc, khi đêm đã gần mãn, sau khi chói sáng toàn cảnh Jetavana với dung sắc thù thắng đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên tử Cấp Cô Độc nói lên với Thế Tôn bài kệ sau đây:

Rừng Jetavana,
Tốt đẹp phước lành này,
Ðược chư Thiên, chúng Tăng,
Thường lui tới an trú,
Ðược Pháp Vương trú trì,
Ban hoan hỷ cho ta.

Nghiệp minh và Chánh Pháp,
Giới, tối thượng sanh mạng,
Chính nhờ các pháp trên,
Khiến chúng sanh thanh tịnh,
Không phải do giai cấp,
Không phải do tài sản.

Do vậy bậc Hiền giả,
Thấy rõ mục đích mình,
Suy tư pháp chân chánh,
Ðược thanh tịnh ở đây.

Như Sāriputta,
Về tuệ, giới, tịch tịnh.
Bất luận Tỷ-kheo nào,
Ðã tới bờ bên kia,
Hãy đạt được tối thắng
Trong những pháp kể trên.

Thiên tử Cấp Cô Độc nói như vậy. Bậc Ðạo Sư tán đồng. Rồi Thiên tử Cấp Cô Độc suy nghĩ: “Bậc Ðạo Sư tán đồng ta.” Sau khi đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ ấy.

Rồi Thế Tôn, khi đêm ấy đã mãn, gọi các Tỷ-kheo: – Này các Tỷ-kheo, đêm nay, một vị Thiên tử, khi đêm đã gần mãn, chiếu sáng toàn cảnh Jetavana với dung sắc thù thắng, đã đi đến Ta, sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Ðứng một bên, vị Thiên tử ấy nói lên với Ta bài kệ … Nói kệ xong, này các Tỷ-kheo, vị Thiên tử ấy suy nghĩ: “Bậc Ðạo sư tán đồng ta”, sau khi đảnh lễ, thân phía hữu hướng về Ta, rồi biến mất tại chỗ ấy.

Khi được nghe nói vậy, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, có phải vị ấy là Thiên tử Cấp Cô Độc chăng? Bạch Thế Tôn, Cư sĩ Cấp Cô Độc có lòng tịnh tín bất động đối với Tôn giả Sāriputta.”

– Lành thay, lành thay, Ānanda! Những gì có thể thành đạt được bởi suy tư đã được đạt đến. Này Ānanda, chính Cấp Cô Độc là vị Thiên tử ấy, không một ai khác.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Ānanda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

(HẾT KINH GIÁO GIỚI CẤP CÔ ĐỘC)

 

TIỂU KINH GIÁO GIỚI

LA-HẦU-LA

(Cūlarāhulovāda sutta. MN. 147)

Việt dịch: HT. Thích Minh Châu

Như vậy ta nghe.

Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī, tại Jetavana, vườn Anāthapiṇḍika.

Rồi Thế Tôn trong khi nhàn tịnh độc cư, khởi lên tư niệm sau đây: “Ðã thuần thục là những pháp đã đưa đến giải thoát cho Rāhula. Vậy Ta hãy huấn luyện Rāhula hơn nữa trong sự đoạn tận các lậu hoặc.” Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sāvatthī để khất thực. Sau khi đi khất thực ở Sāvatthī, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, Thế Tôn cho gọi Tôn giả Rāhula và nói:

– Này Rāhula, hãy cầm tọa cụ, chúng ta sẽ đi đến Andhavana để nghỉ ban ngày.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Tôn giả Rāhula vâng đáp Thế Tôn, cầm lấy tọa cụ và đi theo sau lưng Thế Tôn.

Lúc bấy giờ, hàng ngàn chư Thiên đi theo Thế Tôn và nghĩ rằng: “Hôm nay, Thế Tôn sẽ huấn luyện cho Tôn giả Rāhula hơn nữa trong sự đoạn tận các lậu hoặc.”

Rồi Thế Tôn đi sâu vào rừng Andhavana và ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn dưới một gốc cây. Tôn giả Rāhula đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Rāhula đang ngồi một bên:

– Này Rāhula, ngươi nghĩ thế nào? Con mắt là thường hay vô thường?

– Bạch Thế Tôn, là vô thường.

– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

– Bạch Thế Tôn, là khổ.

– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta”?

– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.

– Này Rāhula, Sắc là thường hay vô thường? … Nhãn thức là thường hay vô thường? … Nhãn xúc là thường hay vô thường? … Do duyên nhãn xúc này, khởi lên thọ, tưởng, hành, thức; các pháp được khởi lên ấy là thường hay vô thường?

– Bạch Thế Tôn, là vô thường.

– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

– Bạch Thế Tôn, là khổ.

– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta”?

– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.

– Này Rāhula, tai là thường hay vô thường? … mũi là thường hay vô thường? … lưỡi là thường hay vô thường? … thân là thường hay vô thường … ý là thường hay vô thường? … pháp là thường hay vô thường? … ý thức là thường hay vô thường? … ý xúc là thường hay vô thường? … Do duyên ý xúc này, được khởi lên thọ, tưởng, hành, thức; các pháp được khởi lên ấy là thường hay vô thường?

– Bạch Thế Tôn, là vô thường.

– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

– Bạch Thế Tôn, là khổ.

– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta”?

– Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.

– Này Rāhula, do thấy vậy, vị Ða văn Thánh đệ tử yếm ly con mắt, yếm ly các sắc, yếm ly nhãn thức, yếm ly nhãn xúc, do duyên nhãn xúc này, được khởi lên thọ, tưởng, hành, thức. Vị ấy yếm ly pháp được khởi lên ấy. Vị ấy yếm ly tai, yếm ly các tiếng …; yếm ly mũi, yếm ly các hương …; yếm ly lưỡi, yếm ly các vị …; yếm ly thân, yếm ly các xúc …; yếm ly ý, yếm ly các pháp …; yếm ly ý thức, yếm ly ý xúc. Do duyên ý xúc này, được khởi lên thọ, tưởng, hành, thức. Vị ấy yếm ly các pháp được khởi lên ấy. Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát là sự hiểu biết: “Ta đã được giải thoát.” Và vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Rāhula, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi sự thuyết giảng này được nói lên, tâm của Tôn giả Rahula được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ. Và đối với hàng ngàn chư Thiên ấy, được khởi lên pháp nhãn ly trần, vô cấu: “Phàm cái gì được khởi lên, tất cả đều bị diệt tận”.

(HẾT TIỂU KINH GIÁO GIỚI LA HẦU LA)

ÐẠI KINH

GIÁO GIỚI LA-HẦU-LA

(Mahā Rāhulovāda sutta. MN. 62)

Việt dịch: HT. Thích Minh Châu

Như vậy ta nghe.

Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī, tại Kỳ Đà Lâm, vườn Anāthapiṇḍika.

Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào thành Sāvatthī để khất thực. Tôn giả Rāhula vào buổi sáng cũng đắp y, cầm y bát, đi sau lưng Thế Tôn. Rồi Thế Tôn, sau khi đưa mắt nhìn xung quanh, bảo Tôn giả Rāhula:

– Này Rahula, bất cứ sắc pháp nào, quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả sắc pháp phải được quán sát như thật với chánh trí tuệ: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta”.

– Bạch Thế Tôn, có phải chỉ sắc mà thôi? Bạch Thiện Thệ, có phải chỉ sắc mà thôi?

– Cả sắc, này Rāhula. Cả thọ, này Rāhula. Cả tưởng, này Rāhula. Cả hành, này Rāhula. Và cả thức, này Rāhula.

Rồi Tôn giả Rāhula tự nghĩ: “Ai có thể hôm nay được Thế Tôn trực tiếp giảng dạy với bài giáo giới, còn có thể đi vào làng để khất thực?” Tôn giả từ chỗ ấy đi trở lui về, ngồi xuống một gốc cây, kiết già, lưng thẳng, an trú niệm trước mặt. Rồi Tôn giả Sāriputta thấy Tôn giả Rāhula đang ngồi dưới một gốc cây, kiết già, lưng thẳng, an trú niệm trước mặt. Sau khi thấy vậy, Ngài nói với Tôn giả Rāhula:

– Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập “Niệm hơi thở vô, hơi thở ra”. Này Rāhula, tu tập “Niệm hơi thở vô hơi thở ra”, làm cho sung mãn, được quả lớn, được lợi ích lớn.

Rồi Tôn giả Rāhula, vào buổi chiều, sau khi từ thiền tịnh đứng dậy, đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Rāhula bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, “Niệm hơi thở vô hơi thở ra” được tu tập như thế nào? Làm cho sung mãn “Niệm hơi thở vô hơi thở ra” như thế nào để được quả lớn, được lợi ích lớn?

Này Rāhula, hãy quán sát địa giới. Thế nào là địa giới? Này Rāhula, cái gì thuộc nội thân, thuộc cá nhân, kiên cứng, thô phù, bị chấp thủ, như tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bao tử, phân và bất cứ vật gì khác, thuộc nội thân, thuộc cá nhân, kiên cứng, thô phù, bị chấp thủ; như vậy, này Rāhula, được gọi là nội địa giới. Những gì thuộc nội địa giới và những gì thuộc ngoại địa giới đều thuộc về địa giới. Ðịa giới ấy phải được quán sát như thật với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải là của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự là ngã của ta.” Sau khi như thật quán sát địa giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với địa giới, tâm từ bỏ địa giới.

Này Rāhula, thế nào là thủy giới? Có nội thủy giới, có ngoại thủy giới. Này Rāhula, thế nào là nội thủy giới? Cái gì thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc nước, thuộc chất lỏng, bị chấp thủ, như mật, đàm, niêm dịch, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước ở khớp xương, nước tiểu, và bất cứ vật gì khác, thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc nước, thuộc chất lỏng, bị chấp thủ; như vậy, này Rāhula, được gọi là nội thủy giới. Những gì thuộc nội thủy giới và những gì thuộc ngoại thủy giới đều thuộc về thủy giới. Thủy giới ấy phải được quán sát như thật với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta”. Sau khi như thật quán sát thủy giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với thủy giới, tâm từ bỏ thủy giới.

Và này Rāhula, thế nào là hỏa giới? Có nội hỏa giới, có ngoại hỏa giới. Và này Rāhula, thế nào là nội hỏa giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc về cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất nóng, bị chấp thủ; như cái gì khiến cho hâm nóng, khiến cho hủy hoại, khiến cho thiêu cháy, cái gì khiến cho những vật được ăn, uống, nhai, nếm, có thể khéo tiêu hóa, hay tất cả những vật gì khác, thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất nóng, bị chấp thủ; này Rāhula, như vậy được gọi là nội hỏa giới. Những gì thuộc nội hỏa giới, và những gì thuộc ngoại hỏa giới đều thuộc về hỏa giới. Hỏa giới ấy phải được quán sát như thật với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta”. Sau khi như thật quán sát hỏa giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với hỏa giới, tâm từ bỏ hỏa giới.

Và này Rāhula, thế nào là phong giới? Có nội phong giới, có ngoại phong giới. Này Rāhula, thế nào là nội phong giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc cá nhân, thuộc gió, thuộc tánh động, bị chấp thủ, như gió thổi lên, gió thổi xuống, gió trong ruột, gió trong bụng dưới, gió thổi ngang các đốt, các khớp, hơi thở vô, hơi thở ra, và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc gió, thuộc tánh động, bị chấp thủ; này Rāhula, như vậy được gọi là nội phong giới. Những gì thuộc nội phong giới và những gì thuộc ngoại phong giới đều thuộc về phong giới. Phong giới ấy phải được quán sát như thật với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta”. Sau khi như thật quán sát phong giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với phong giới, tâm từ bỏ phong giới.

Và này Rāhula, thế nào là hư không giới? Có nội hư không giới, có ngoại hư không giới. Và này Rāhula, thế nào là nội hư không giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc cá nhân, thuộc hư không, thuộc hư không tánh, bị chấp thủ, như lỗ tai, lỗ mũi, cửa miệng, do cái gì người ta nuốt, những gì được nhai, được uống, được ăn và được nếm, và tại chỗ mà những gì được nhai, được uống, được ăn và được uống được giữ lại, và ngang qua chỗ mà những gì được nhai, được uống, được ăn và được tống xuất xuống phần dưới để ra ngoài, và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc hư không, thuộc hư không tánh, bị chấp thủ; này Rāhula, như vậy được gọi là nội hư không giới. Những gì thuộc nội hư không giới và những gì thuộc ngoại hư không giới đều thuộc về hư không giới. Hư không giới ấy phải được quán sát như thật với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta.” Sau khi như thật quán sát hư không giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với hư không giới, tâm từ bỏ hư không giới.

Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập như đất. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập như đất, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại. Này Rāhula, ví như trên đất người ta quăng đồ tịnh, quăng đồ bất tịnh, quăng phân uế, quăng nước tiểu, nhổ nước miếng, quăng mủ và quăng máu; tuy vậy đất không lo âu, không dao động, hay không nhàm chán; cũng vậy, này Rāhula, hãy tu tập như đất. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập như đất, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại.

Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập như nước. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập như nước, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại. Này Rāhula, ví như trong nước người ta rửa đồ tịnh, rửa đồ bất tịnh, rửa sạch phân uế, rửa sạch nước tiểu, rửa sạch nước miếng, rửa sạch mủ, rửa sạch máu; tuy vậy nước không lo âu, không dao động, không nhàm chán; cũng vậy, này Rāhula, hãy tu tập sự tụ tập như nước, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại.

Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập như lửa. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập như lửa, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại. Này Rāhula, ví như lửa đốt các đồ tịnh, đốt các đồ không tịnh, đốt phân uế, đốt nước tiểu, đốt nước miếng, đốt mủ, đốt máu; tuy vậy lửa không lo âu, không dao động, không nhàm chán; cũng vậy, này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập như lửa, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại.

Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập như gió. Này Rahula, do tu tập sự tu tập như gió, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại. Này Rāhula, như gió thổi các đồ tịnh, thổi các đồ không tịnh, thổi phân uế, thổi nước tiểu, thổi nước miếng, thổi mủ, thổi máu, tuy vậy gió không lo âu, không dao động, không nhàm chán. Cũng vậy, này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập như gió, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại.

Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập như hư không. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập như hư không, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại. Này Rāhula, ví như hư không không bị trú tại một chỗ nào; cũng vậy, này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập như hư không. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập như hư không, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại.

Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập về lòng Từ. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập về lòng Từ, cái gì thuộc sân tâm sẽ được trừ diệt. Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập về lòng Bi. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập về lòng Bi, cái gì thuộc hại tâm sẽ được trừ diệt. Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập về Hỷ. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập về Hỷ, cái gì thuộc bất lạc sẽ được trừ diệt. Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập về Xả. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập về Xả, cái gì thuộc hận tâm sẽ được trừ diệt.

Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập về Bất tịnh. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập về Bất tịnh, cái gì thuộc tham ái được trừ diệt.

Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập về Vô thường. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập về Vô thường, cái gì thuộc ngã mạn được trừ diệt.

Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập về Niệm hơi thở vô hơi thở ra. Này Rāhula, do tu tập Niệm hơi thở vô hơi thở ra, làm cho sung mãn, nên được quả lớn, được lợi ích lớn.

Và này Rāhula, thế nào là tu tập Niệm hơi thở vô hơi thở ra, làm cho sung mãn nên được quả lớn, được lợi ích lớn?

Ở đây, này Rāhula, vị Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra. Hay thở vô dài, vị ấy biết “thở vô dài”; hay thở ra dài, vị ấy biết “thở ra dài”; hay thở vô ngắn, vị ấy biết “thở vô ngắn”; hay thở ra ngắn, vị ấy biết “thở ra ngắn”.

“Cảm giác toàn thân, tỉnh giác thở vô”, vị ấy tập. “Cảm giác toàn thân, tỉnh giác thở ra”, vị ấy tập. “An tịnh thân hành, tỉnh giác thở vô”, vị ấy tập. “An tịnh thân hành, tỉnh giác thở ra”, vị ấy tập.

“Cảm giác hỷ thọ, tỉnh giác thở vô”, vị ấy tập. “Cảm giác hỷ thọ, tỉnh giác thở ra”, vị ấy tập. “Cảm giác lạc thọ, tỉnh giác thở vô”, vị ấy tập. “Cảm giác lạc thọ, tỉnh giác thở ra”, vị ấy tập.  “Cảm giác tâm hành, tỉnh giác thở vô”, vị ấy tập. “Cảm giác tâm hành, tỉnh giác thở ra”, vị ấy tập. “An tịnh tâm hành, tỉnh giác thở vô”, vị ấy tập. “An tịnh tâm hành, tỉnh giác thở ra”, vị ấy tập.

“Cảm giác về tâm, tỉnh giác thở vô”, vị ấy tập.  “Cảm giác về tâm, tỉnh giác thở ra”, vị ấy tập. “Với tâm hân hoan, tỉnh giác thở vô”, vị ấy tập. “Với tâm hân hoan, tỉnh giác thở ra, vị ấy tập. “Với tâm định tĩnh, tỉnh giác thở vô”, vị ấy tập. “Với tâm định tĩnh, tỉnh giác thở ra”, vị ấy tập. “Với tâm giải thoát, tỉnh giác thở vô”, vị ấy tập. “Với tâm giải thoát, tỉnh giác thở ra”, vị ấy tập.

“Quán vô thường, tỉnh giác thở vô”, vị ấy tập. “Quán vô thường, tỉnh giác thở ra”, vị ấy tập. “Quán ly tham, tỉnh giác thở vô”, vị ấy tập.

“Quán ly tham, tỉnh giác thở ra”, vị ấy tập.

“Quán đoạn diệt, tỉnh giác thở vô”, vị ấy tập. “Quán đoạn diệt, tỉnh giác thở ra”, vị ấy tập. “Quán từ bỏ, tỉnh giác thở vô”, vị ấy tập.

“Quán từ bỏ, tỉnh giác thở ra”, vị ấy tập.

Tu tập Niệm hơi thở vô hơi thở ra như vậy, này Rāhula, làm cho sung mãn như vậy, có quả lớn, có lợi ích lớn. Này Rāhula, tu tập Niệm hơi thở vô hơi thở ra như vậy, làm cho sung mãn như vậy, thời khi những hơi thở vô, hơi thở ra tối hậu chấm dứt, chứng được giác tri, không phải không được giác tri.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Rāhula hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

(HẾT ĐẠI KINH GIÁO GIỚI LA HẦU LA)

KINH SÁU SÁU
(Chachakka sutta. MN. 148)

Như vậy ta nghe.

Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī, tại Jetavana, vườn Anāthapiṇḍika.

Tại đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: Này các Tỷ-kheo!

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

Thế Tôn nói như sau:

– Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng pháp cho các ngươi, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn. Ta sẽ nói lên Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, thanh tịnh, tức là sáu sáu. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

Thế Tôn nói như sau:

Sáu nội xứ cần phải được biết. Sáu ngoại xứ cần phải được biết. Sáu thức thân cần phải được biết. Sáu xúc thân cần phải được biết. Sáu thọ thân cần phải được biết. Sáu ái thân cần phải được biết.

(LIỆT KÊ SÁU SÁU = 36 PHÁP)

Khi được nói đến: “Sáu nội xứ cần phải được biết”, do duyên gì được nói đến như vậy? Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ. Khi được nói đến: “Sáu nội xứ cần phải được biết,” chính do duyên này được nói đến như vậy. Ðây là sáu sáu thứ nhất.

Khi được nói đến: “Sáu ngoại xứ cần phải được biết,” do duyên gì được nói đến như vậy? Sắc xứ, thanh xứ, hương xứ, vị xứ, xúc xứ, pháp xứ. Khi được nói đến: “Sáu ngoại xứ cần phải được biết”, chính do duyên này được nói đến như vậy. Ðây là sáu sáu thứ hai.

Khi được nói đến: “Sáu thức thân cần phải được biết”, do duyên gì được nói đến như vậy? Do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhãn thức. ‖ Do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. ‖ Do duyên mũi và do duyên các hương, khởi lên tỷ thức. ‖ Do duyên lưỡi và do duyên các vị, khởi lên thiệt thức. ‖ Do duyên thân và do duyên các xúc, khởi lên thân thức. ‖ Do duyên ý và do duyên các pháp, khởi lên ý thức. Khi được nói đến: “Sáu thức thân cần phải được biết”, chính do duyên này được nói đến như vậy. Ðây là sáu sáu thứ ba.

Khi được nói đến: “Sáu xúc thân cần phải được biết”, do duyên gì được nói đến như vậy? Do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. ‖ Do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. ‖ Do duyên mũi và do duyên các hương, khởi lên tỷ thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. ‖ Do duyên lưỡi và do duyên các vị, khởi lên thiệt thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. ‖ Do duyên thân và do duyên các xúc, khởi lên thân thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. ‖ Do duyên ý và do duyên các pháp, khởi lên ý thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Khi được nói đến: “Sáu xúc thân cần phải được biết”, chính do duyên này được nói đến như vậy. Ðây là sáu sáu thứ tư.

Khi được nói đến: “Sáu thọ thân cần phải được biết”, do duyên gì được nói đến như vậy? Do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc là thọ. ‖ Do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc là thọ. ‖ Do duyên mũi và do duyên các hương, khởi lên tỷ thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc là thọ. ‖ Do duyên lưỡi và do duyên các vị, khởi lên thiệt thức Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc là thọ. ‖ Do duyên thân và do duyên các xúc, khởi lên thân thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc là thọ. ‖ Do duyên ý và do duyên các pháp, khởi lên ý thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc là thọ. Khi được nói đến: “Sáu thọ thân cần phải được biết”, chính do duyên này được nói đến như vậy. Ðây là sáu sáu thứ năm.

Khi được nói đến: “Sáu ái thân cần phải được biết”, do duyên gì được nói đến như vậy? Do duyên mắt và duyên các sắc, khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái. ‖ Do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái. ‖ Do duyên mũi và do duyên các hương, khởi lên tỷ thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái. ‖ Do duyên lưỡi và do duyên các vị, khởi lên thiệt thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái. ‖ Do duyên thân và do duyên các xúc, khởi lên thân thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái. ‖ Do duyên ý và do duyên các pháp, khởi lên ý thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái. Khi được nói đến: “Sáu ái thân cần phải được biết”, chính do duyên này được nói đến như vậy. Ðây là sáu sáu thứ sáu.

(VÔ NGÃ CỦA SÁU SÁU)

Nếu ai nói rằng: “Mắt là tự ngã”, như vậy là không hợp lý.  Sự sanh và sự diệt của mắt đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt của mắt đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: “Tự ngã sanh và diệt ở nơi ta”. Do vậy, nếu ai nói rằng: “Mắt là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Như vậy, con mắt là vô ngã.

Nếu ai nói rằng: “Các sắc là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của các sắc đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt của các sắc đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: “Tự ngã sanh và diệt ở nơi ta”. Do vậy, nếu ai nói rằng: “Các sắc là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Như vậy, con mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã.

Nếu ai nói rằng: “Nhãn thức là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của nhãn thức đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt của nhãn thức đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: “Tự ngã sanh và diệt ở nơi ta.” Do vậy, nếu ai nói rằng: “Nhãn thức là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Như vậy, con mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã, nhãn thức là vô ngã.

Nếu có ai nói rằng: “Nhãn xúc là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của nhãn xúc đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt của nhãn xúc đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: “Tự ngã sanh và diệt ở nơi ta.” Do vậy, nếu ai nói rằng: “Nhãn xúc là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Như vậy, con mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã, nhãn thức là vô ngã, nhãn xúc là vô ngã.

Nếu có ai nói rằng: “Thọ là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của thọ đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt của thọ đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: “Tự ngã sanh và diệt ở nơi ta.” Do vậy, nếu ai nói rằng: “Thọ là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Như vậy, con mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã, nhãn thức là vô ngã, nhãn xúc là vô ngã, thọ là vô ngã.

Nếu có ai nói rằng: “Ái là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của ái đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt của ái đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: “Tự ngã sanh và diệt ở nơi ta”. Do vậy, nếu ai nói rằng: “Ái là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Như vậy, con mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã, nhãn thức là vô ngã, nhãn xúc là vô ngã, thọ là vô ngã, ái là vô ngã.

Nếu có ai nói rằng: “Tai là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Nếu có ai nói rằng: “Mũi là tự ngã”, như vậy là không hợp lý… Nếu có ai nói rằng: “Lưỡi là tự ngã”, như vậy là không hợp lý… Nếu có ai nói rằng: “Thân là tự ngã”, như vậy là không hợp lý… Nếu có ai nói rằng: “Ý là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của ý đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt của ý đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: “Tự ngã sanh và diệt ở nơi ta.” Do vậy, nếu ai nói rằng: “Ý là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Như vậy, ý là vô ngã.

Nếu có ai nói rằng: “Các pháp là tự ngã”, như vậy, là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của các pháp đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt của các pháp đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: “Tự ngã sanh và diệt ở nơi ta.” Do vậy, nếu ai nói rằng: “Các pháp là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Như vậy, ý là vô ngã, các pháp là vô ngã. Nếu có ai nói rằng: “Ý thức là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của ý thức đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt của ý thức đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: “Tự ngã sanh và diệt ở nơi ta.” Do vậy, nếu ai nói rằng: “Ý thức là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Như vậy, ý là vô ngã, các pháp là vô ngã, ý thức là vô ngã.

Nếu có ai nói rằng: “Ý xúc là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của ý xúc đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt của ý xúc đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: “Tự ngã sanh và diệt ở nơi ta.” Do vậy, nếu có ai nói rằng: “Ý xúc là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Như vậy, ý là vô ngã, các pháp là vô ngã, ý thức là vô ngã, ý xúc là vô ngã.

Nếu có ai nói rằng: “Thọ là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của thọ đã dược thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt của thọ đã được thấy, nên đưa phải đưa đến kết luận: “Tự ngã sanh và diệt ở nơi ta”. Do vậy, nếu có ai nói rằng: “Thọ là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Như vậy, ý là vô ngã, các pháp là vô ngã, ý thức là vô ngã, ý xúc là vô ngã, thọ là vô ngã.

Nếu có ai nói rằng: “Ái là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của ái đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt của ái đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: “Tự ngã sanh và diệt ở nơi ta”. Do vậy, nếu có ai nói rằng: “Ái là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Như vậy, ý là vô ngã, các pháp là vô ngã, ý thức là vô ngã, ý xúc là vô ngã, thọ là vô ngã, ái là vô ngã.

(TẬP KHỞI VÀ ĐOẠN DIỆT THÂN KIẾN)

Này các Tỷ-kheo, đây là con đường đưa đến sự tập khởi của thân kiến: Ai quán mắt (nội xứ) là: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta.” Ai quán các sắc (ngoại xứ) … Ai quán nhãn thức (thức thân) … Ai quán nhãn xúc (xúc thân) … Ai quán thọ (thọ thân) … Ai quán ái (ái thân) là “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta.” Ai quán tai… Ai quán mũi… Ai quán lưỡi… Ai quán thân… Ai quán ý rằng “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta.” Ai quán các pháp… Ai quán ý thức… Ai quán ý xúc… Ai quán thọ… Ai quán ái rằng “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta.”

Nhưng này các Tỷ-kheo, đây là con đường đưa đến sự đoạn diệt của thân kiến: Ai quán mắt: “Cái này không phải là của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải là tự ngã của ta.” Ai quán sắc… Ai quán nhãn thức… Ai quán nhãn xúc… Ai quán thọ… Ai quán ái… Ai quán tai… Ai quán mũi… Ai quán lưỡi…. Ai quán thân… Ai quán ý…. Ai quán các pháp… Ai quán ý thức… Ai quán ý xúc… Ai quán thọ… Ai quán ái: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta.”

Này các Tỷ-kheo, do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc, khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy cảm xúc lạc thọ, mà hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước, do vậy tham tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy cảm xúc khổ thọ, mà sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh, do vậy sân tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà không như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy, do vậy vô minh tùy miên của vị ấy tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy do không đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, không đoạn tận vô minh, không làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy không xảy ra.

Này các Tỷ-kheo, do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức… Này các Tỷ-kheo, do duyên mũi và do duyên các hương, khởi lên tỷ thức… Này các Tỷ-kheo, do duyên lưỡi và do duyên các vị, khởi lên thiệt thức… Này các Tỷ-kheo, do duyên thân và do duyên các xúc, khởi lên thân thức… Này các Tỷ-kheo, do duyên ý và do duyên các pháp, khởi lên ý thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc, khởi lên lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy cảm xúc lạc thọ, mà hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước, do vậy tham tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy cảm xúc khổ thọ mà sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh, do vậy sân tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà không như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy, do vậy vô minh tùy miên của vị ấy tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do không đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, không đoạn tận vô minh, không làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy không xảy ra.

Này các Tỷ-kheo, do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc, khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy cảm xúc lạc thọ, mà không hoan hỷ, không tán thán, không trú ở ái trước, do vậy tham tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc khổ thọ, mà không sầu muộn, không than van, không than khóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, do vậy sân tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy, do vậy vô minh tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, đoạn tận vô minh, làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy xảy ra.

Này các Tỷ-kheo, do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức… Này các Tỷ-kheo, do duyên mũi và do duyên các hương, khởi lên tỷ thức… Này các Tỷ-kheo, do duyên lưỡi và do duyên các vị, khởi lên thiệt thức… Này các Tỷ-kheo, do duyên thân và do duyên các xúc, khởi lên thân thức… Này các Tỷ-kheo, do duyên ý và do duyên các pháp, khởi lên ý thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên cảm xúc, khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy cảm xúc lạc thọ mà không hoan hỷ, không tán thán, không trú ở ái trước, do vậy tham tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc khổ thọ mà không sầu muộn, không than van, không than khóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh; do vậy sân tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc bất khổ bất lạc thọ mà như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, đoạn tận vô minh, làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy xảy ra.

Này các Tỷ-kheo, do thấy vậy, vị Ða văn Thánh đệ tử yếm ly mắt, yếm ly các sắc, yếm ly nhãn thức; yếm ly nhãn xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái. Vị ấy yếm ly tai, yếm ly các tiếng…; yếm ly mũi, yếm ly các hương…; yếm ly lưỡi, yếm ly các vị…; yếm ly thân, yếm ly các xúc…; yếm ly ý, yếm ly các pháp; yếm ly ý thức, yếm ly ý xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái.

Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát là sự hiểu biết: “Ta đã được giải thoát”. Và vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi sự thuyết giảng này được nói lên, tâm của sáu mươi Tỷ-kheo ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.

(HẾT KINH SÁU SÁU)

 

ÐẠI KINH SÁU XỨ
(Mahāsalāyatanika sutta. MN. 149)

Như vậy ta nghe.

Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī, tại Jetavana (Kỳ Đà Lâm), vườn Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc).

Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: Này các đệ tử!

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

Thế Tôn nói như sau:

– Này các đệ tử, Ta sẽ giảng Ðại Kinh Sáu Xứ. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ. Ta sẽ giảng.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

Thế Tôn giảng như sau:

– Này các đệ tử, không biết, không thấy như chơn đối với con mắt; không biết, không thấy như chơn đối với các sắc; không biết, không thấy như chơn đối với nhãn thức; không biết, không thấy như chơn đối với nhãn xúc; do duyên nhãn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ; không biết, không thấy như chơn đối với cảm thọ ấy, vị ấy ái trước đối với mắt, ái trước đối với các sắc, ái trước đối với nhãn thức, ái trước đối với nhãn xúc. Do duyên nhãn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, vị ấy ái trước đối với cảm thọ ấy.

Khi vị ấy trú, quán sát vị ngọt, bị ái trước, hệ lụy và tham đắm, nên năm thủ uẩn đi đến tích trữ trong tương lai. Và ái của vị ấy đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm sự hoan lạc chỗ này, chỗ kia; ái ấy được tăng trưởng; những thân ưu não tăng trưởng; những tâm ưu não tăng trưởng; những thân nhiệt não tăng trưởng; những tâm khổ não tăng trưởng. Vị ấy cảm thọ thân khổ và tâm khổ.

Này các đệ tử, không thấy và không biết như chơn đối với tai…; không thấy và không biết như chơn đối với mũi…; không thấy và không biết như chơn đối với lưỡi…; không thấy và không biết như chơn đối với thân…; không thấy và không biết như chơn đối với ý; không thấy và không biết như chơn đối với các pháp; không thấy và không biết như chơn đối với ý thức; không thấy và không biết như chơn đối với ý xúc. Do duyên ý xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ; không thấy và không biết như chơn cảm thọ ấy, vị ấy ái trước đối với ý, ái trước đối với pháp, ái trước đối với ý thức, ái trước đối với ý xúc. Do duyên ý xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ… vị ấy cảm thọ thân khổ và tâm khổ.

Này các đệ tử, thấy và biết như chơn đối với mắt, thấy và biết như chơn đối với các sắc, thấy và biết như chơn đối với nhãn thức, thấy và biết như chơn đối với nhãn xúc. Do duyên nhãn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, thấy và biết như chơn cảm thọ ấy; vị ấy không ái trước đối với con mắt, không ái trước đối với các sắc, không ái trước đối với nhãn thức, không ái trước đối với nhãn xúc. Do duyên nhãn xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ; vị ấy không ái trước đối với cảm thọ ấy.

Khi vị ấy trú, quán sát vị ngọt, không bị ái trước, hệ lụy và tham đắm, nên năm thủ uẩn đi đến tàn diệt trong tương lai. Và ái của vị ấy, đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm sự hoan lạc chỗ này chỗ kia; ái ấy được đoạn tận; những thân ưu não của vị ấy được đoạn tận; những tâm ưu não được đoạn tận; những thân nhiệt não được đoạn tận; những tâm nhiệt não được đoạn tận; những thân khổ não được đoạn tận; những tâm khổ não được đoạn tận; vị ấy cảm thọ thân lạc và tâm lạc.

Kiến gì như chơn của vị ấy, kiến ấy là Chánh kiến. Tư duy gì như chơn của vị ấy, tư duy ấy là Chánh tư duy. Tinh tấn gì như chơn của vị ấy, tinh tấn ấy là Chánh tinh tấn. Niệm gì như chơn của vị ấy, niệm ấy là Chánh niệm. Ðịnh gì như chơn của vị ấy, định ấy là Chánh định. Thân nghiệp, ngữ nghiệp, sinh mạng của vị ấy được thanh tịnh tốt đẹp. Và Thánh Đạo Tám Chánh này đi đến tu tập và phát triển sung mãn cho vị ấy. Do sự tu tập Thánh Đạo Tám Chánh này như vậy, Bốn niệm xứ đi đến tu tập và phát triển sung mãn; Bốn Chánh tinh tấn cũng đi đến tu tập và phát triển sung mãn; Bốn như ý túc cũng đi đến tu tập và phát triển sung mãn; Năm căn cũng đi đến tu tập và phát triển sung mãn; Năm lực cũng đi đến tu tập và phát triển sung mãn; Bảy giác chi cũng đi đến tu tập và phát triển sung mãn. Và nơi vị ấy, hai pháp này được chuyển vận song hành: Chỉ và Quán. Với thượng trí, vị ấy liễu tri những pháp cần phải liễu tri với thượng trí. Với thượng trí, vị ấy đoạn tận những pháp cần phải đoạn tận với thượng trí. Với thượng trí, vị ấy tu tập những pháp cần phải tu tập với thượng trí. Với thượng trí, vị ấy chứng ngộ những pháp cần phải chứng ngộ với thượng trí.

Và này các đệ tử, thế nào là những pháp cần phải liễu tri với thượng trí? Cần phải trả lời là năm thủ uẩn, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Những pháp này là những pháp cần phải liễu tri với thượng trí.

Và này các đệ tử, thế nào là các pháp cần phải đoạn tận với thượng trí? Vô minh và hữu ái, những pháp này cần phải đoạn tận với thượng trí.

Và này các đệ tử, thế nào là các pháp cần phải tu tập với thượng trí? Chỉ và Quán, những pháp này cần phải tu tập với thượng trí.

Và này các đệ tử, thế nào là những pháp cần phải chứng ngộ với thượng trí? Minh và giải thoát, những pháp này cần phải chứng ngộ với thượng trí.

Này các đệ tử, thấy và biết như chơn đối với tai…; thấy và biết như chơn đối với mũi…; thấy và biết như chơn đối với lưỡi…; thấy và biết như chơn đối với thân…; thấy và biết như chơn đối với ý; thấy và biết như chơn đối với các pháp; thấy và biết như chơn đối với ý thức; thấy và biết như chơn đối với ý xúc. Do duyên ý xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ; thấy và biết như chơn cảm thọ ấy, nên vị ấy không ái trước đối với ý, không ái trước đối với các pháp, không ái trước đối với ý thức, không ái trước đối với ý xúc. Do duyên ý xúc này khởi lên lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ; vị ấy không ái trước đối với cảm thọ ấy… tâm khổ não được đoạn tận. Vị ấy cảm thọ thân lạc và tâm lạc. Kiến gì như chơn của vị ấy, kiến ấy là chánh kiến. Tư duy gì như chơn của vị ấy… hoạt mạng của vị ấy đi đến thanh tịnh tốt đẹp. Và Thánh Đạo Tám Chánh này đi đến tu tập và phát triển sung mãn cho vị ấy. Do sự tu tập Thánh Đạo Tám Chánh này như vậy… Và này các Tỷ-kheo, thế nào là những pháp cần phải chứng ngộ với thượng trí? Minh và giải thoát, những pháp này cần phải chứng ngộ với thượng trí.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

(HẾT ĐẠI KINH SÁU XỨ)

KINH VÍ DỤ CON RẮN
(Alagaddùpama sutta. MN. 22)

Việt dịch: HT. Thích Minh Châu

Như vậy ta nghe.

Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn Anathapindika.

Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo tên là Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khởi lên ác tà kiến như sau: “Theo như ta hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì”.

Một số đông Tỷ-kheo nghe như sau: “Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khởi lên ác tà kiến như sau: “Theo như ta hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì”. Rồi những Tỷ-kheo ấy đi đến chỗ Tỷ-kheo Arittha, liền nói với Tỷ-kheo Arittha như sau:

– Này Hiền giả Arittha, có đúng sự thật rằng, Hiền giả khởi lên ác tà kiến như sau: “Theo như ta hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì”?

– Thật sự là vậy, chư Hiền.

Rồi những Tỷ-kheo ấy muốn Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng từ bỏ ác tà kiến ấy, liền cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận: – “Hiền giả Arittha, chớ nói như vậy, chớ xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không có nói như vậy. Hiền giả Arittha, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp. Và những ai thọ dụng chúng tự đủ bị chướng ngại. Thế Tôn đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như khúc xương… Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như một miếng thịt… Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như bó đuốc cỏ khô… Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như hố than hừng… Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như cơn mộng… Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như vật dụng cho mượn… Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như trái cây… Thế Tôn đã thuyết các dục vọng được ví như lò thịt… Thế Tôn đã thuyết các dục vọng được ví như gậy nhọn… Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như đầu rắn, vui ít khổ nhiều, não nhiều và do vậy, nguy hiểm càng nhiều hơn”.

Tỷ-kheo Arittha xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, dầu được các Tỷ-kheo ấy cật vấn, chất vấn thảo luận, vẫn nói lên ác tà kiến ấy, cứng đầu, chấp chặt, nắm chặt tà kiến ấy: “Theo như ta hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì”.

Vì các Tỷ-kheo không thể làm cho Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, từ bỏ ác tà kiến ấy, nên các Tỷ-kheo đến chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, những Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khởi lên ác tà kiến như sau: “Theo như ta hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì”. Bạch Thế Tôn, rồi chúng con đi đến chỗ Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khi đến xong, liền khuyên Tỷ-kheo Arittha nên từ bỏ ác tà kiến ấy.

Bạch Thế Tôn, chúng con muốn khiến Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, từ bỏ ác tà kiến ấy, liền cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, dầu được chúng con cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận, vẫn nói lên ác tà kiến ấy, cứng đầu, chấp chặt, nắm chặt tà kiến ấy. Bạch Thế Tôn, vì chúng con không thể làm cho Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, từ bỏ ác tà kiến ấy, nên chúng con đến hỏi Thế Tôn ý nghĩa này.

Rồi Thế Tôn cho gọi một Tỷ-kheo khác:

– Này Tỷ-kheo, hãy đi và nhân danh Ta gọi Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng rằng: “Hiền giả Arittha, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả”.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Tỷ-kheo ấy vâng lời Thế Tôn, đến chỗ Tỷ-kheo Arittha, liền nói với Tỷ-kheo Arittha:

– Hiền giả Arittha, bậc Ðạo sư gọi Hiền giả.

– Thưa vâng, Hiền giả.

Tỷ-kheo Arittha đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tỷ-kheo Arittha:

– Này Arittha, có thật chăng, ngươi khởi lên ác tà kiến như sau: “Theo như ta hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì”?

– Thật sự là vậy, bạch Thế Tôn. Theo như con hiểu, thật sự không có chướng ngại gì.

– Này Arittha, ngươi thật là ngu si. Sao ngươi lại hiểu pháp Ta thuyết giảng như vậy? Này Arittha, có phải chăng, Ta đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp. Và những ai thọ dụng chúng tự đủ bị chướng ngại? Ta đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Ta đã thuyết các dục được ví như khúc xương… Ta đã thuyết các dục được ví như miếng thịt… được ví như bó đuốc cỏ khô… được ví như hố than hừng… được ví như cơn mộng… được ví như vật dụng cho mượn… được ví như trái cây… được ví như lò thịt… được ví như gậy nhọn… Ta đã thuyết các dục được ví như đầu rắn, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Và này kẻ ngu si kia, không những ngươi xuyên tạc Ta, vì ngươi đã tự chấp thủ sai lạc, ngươi tự phá hoại ngươi và tạo nên nhiều tổn đức. Này kẻ ngu si kia, và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh và đau khổ lâu dài cho ngươi.

Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

– Chư Tỷ-kheo, các ngươi nghĩ thế nào? Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng này có thể khởi lên tia sáng gì trong Pháp và Luật này không?

– Bạch Thế Tôn, làm sao có thể được! Không thể được, bạch Thế Tôn.

Ðược nói vậy, Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, im lặng, hổ thẹn, thụt vai, cúi đầu, lo âu, câm miệng. Rồi Thế Tôn, sau khi biết được Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng đang im lặng, hổ thẹn, thụt vai, cúi đầu, lo âu, câm miệng, bèn nói với Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng:

– Này Arittha, người ta sẽ được biết ngươi qua ác tà kiến của chính ngươi. Ở đây, Ta sẽ hỏi các Tỷ-kheo.

Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

– Chư Tỷ-kheo, các ngươi có hiểu pháp Ta thuyết giảng giống như Tỷ-kheo Arittha chăng?

– Bạch Thế Tôn, không. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp, và những ai thọ dụng chúng, tự đủ bị chướng ngại. Thế Tôn đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn, Thế Tôn đã thuyết các dục ví như khúc xương… Thế Tôn đã thuyết các dục ví như đầu rắn, vui ít, khổ nhiều, não nhiều và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn.

– Lành thay, chư Tỷ-kheo! Lành thay, chư Tỷ-kheo! Các ngươi hiểu pháp Ta thuyết giảng như vậy. Chư Tỷ-kheo, Ta đã dùng nhiều phương pháp thuyết chướng đạo pháp, và những ai thọ dụng chúng, tự đủ bị chướng ngại. Ta đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Ta đã thuyết các dục ví như khúc xương … Ta đã thuyết các dục ví như đầu rắn, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Nhưng Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, không những xuyên tạc Ta vì đã tự chấp thủ sai lạc mà còn tự phá hoại mình và tạo nên nhiều tổn đức, và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh, đau khổ lâu ngày cho kẻ ngu si ấy.

Thật sự, này các Tỷ-kheo, sự kiện này không xảy ra, người ta có thể thọ dụng các dục ngoài các dục, ngoài các dục tưởng, ngoài các dục tầm.

(VÍ DỤ CON RẮN)

Chư Tỷ-kheo, ở đây có một số người ngu si học pháp, như Kinh, Ứng tụng, Giải thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị ngữ, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Phương quảng. Sau khi học các pháp này, họ không quán sát ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ. Những pháp ấy, vì ý nghĩa không được trí tuệ quán sát, nên không trở thành rõ ràng. Họ học các pháp chỉ vì lợi ích, muốn chỉ trích người khác, chỉ vì lợi ích, muốn khoái khẩu biện luận, và họ không đạt được mục tiêu mà sự học pháp hướng đến. Những pháp ấy vì nắm giữ sai lạc nên đưa họ đến bất hạnh, đau khổ lâu dài. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì nắm giữ sai lạc các pháp.

Chư Tỷ-kheo, ví như một người ưa muốn rắn nước, tìm cầu rắn nước, đi khắp chỗ để tìm rắn nước. Người đó thấy một con rắn nước lớn, và người đó bắt con rắn ấy ở lưng hay ở đuôi. Con rắn ấy có thể quay lại cắn người đó nơi tay, nơi cánh tay hay ở một phần nào khác của cơ thể, và người đó có thể do nhân này mà bị chết hay bị đau khổ gần như chết. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, vì nắm bắt con rắn một cách sai lạc. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, ở đây, một số người ngu si học pháp…  Sau khi học các pháp này, họ không quán sát ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ. Những pháp ấy, vì ý nghĩa không được trí tuệ quán sát, nên không trở thành rõ ràng. Họ học các pháp chỉ vì lợi ích, muốn chỉ trích người khác, chỉ vì lợi ích, muốn khoái khẩu biện luận, và họ không đạt được mục tiêu mà sự học pháp hướng đến. Những pháp ấy, vì không khéo nắm giữ, nên đưa họ đến bất hạnh, đau khổ lâu dài. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì khéo nắm giữ sai lạc các pháp.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, một số Thiện nam tử học pháp, như Kinh, Ứng tụng, Giải thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị ngữ, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Phương quảng. Sau khi học các pháp này, họ quán sát ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ. Những pháp ấy, vì ý nghĩa được trí tuệ quán sát, nên trở thành rõ ràng. Họ học pháp không vì lợi ích, muốn chỉ trích người khác, không vì lợi ích, muốn khoái khẩu biện luận, và họ đạt được mục tiêu mà sự học pháp hướng đến. Những pháp ấy, vì khéo nắm giữ, nên đưa họ đến hạnh phúc, an lạc lâu dài. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì khéo nắm giữ các pháp.

Chư Tỷ-kheo, ví như một người ưa muốn rắn nước, tìm cầu rắn nước đi khắp chỗ để tìm rắn nước. Người đó thấy một con rắn nước lớn. Người đó có thể khéo đè con rắn nước với cây gậy có nạng. Sau khi khéo đè với cây gậy có nạng, người đó có thể khéo nắm giữ cổ rắn. Chư Tỷ-kheo, dầu cho con rắn nước ấy có thể cuốn thân nó xung quanh tay, hay cánh tay, hay một thân phần nào khác, người đó cũng không vì nhân duyên ấy đi đến chỗ chết hay đến sự đau khổ gần như chết. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, vì khéo nắm giữ con rắn nước vậy.

Cũng vậy, chư Tỷ-kheo, ở đây, một số Thiện nam tử học pháp… chư Tỷ-kheo, vì khéo nắm giữ các pháp vậy. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy hiểu rõ ý nghĩa lời Ta thuyết giảng và thọ trì như vậy. Nếu có ai không hiểu rõ ý nghĩa lời Ta thuyết giảng thì ở nơi đây, các ngươi hãy hỏi Ta hay hỏi những bậc Tỷ-kheo trí thức.

(VÍ DỤ CHIẾC BÈ)

Chư Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng pháp cho các ngươi, ví như chiếc bè để vượt qua, không phải để nắm giữ lấy. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:

– Này các Tỷ-kheo, ví như có người đang đi trên con đường lớn dài, đến một vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và hãi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hãi, nhưng không có thuyền để vượt qua hay không có cầu bắc qua từ bờ này đến bờ kia. Người đó tự suy nghĩ: “Ðây là vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và hãi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hãi, nhưng không có thuyền để vượt qua hay không có cầu bắc qua từ bờ này đến bờ kia. Nay ta hãy thâu góp cỏ, cây, nhánh, lá, cột lại thành chiếc bè, và dựa trên chiếc bè này, tinh tấn dùng tay chân, có thể vượt qua bờ bên kia một cách an toàn”. Chư Tỷ-kheo, rồi người đó thâu góp cỏ, cây, nhánh, lá cột lại thành chiếc bè, và nhờ chiếc bè này, tinh tấn dùng tay chân vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Khi qua bờ bên kia rồi, người đó suy nghĩ: “Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Nay ta hãy đội chiếc bè này trên đầu hay vác nó trên vai, và đi đến chỗ nào ta muốn”. Chư Tỷ-kheo, các ngươi nghĩ thế nào? Chư Tỷ-kheo, nếu người đó làm như vậy, thì có làm đúng với sở dụng của chiếc bè chăng?

– Bạch Thế Tôn, không.

– Chư Tỷ-kheo, người đó phải làm thế nào cho đúng sở dụng của chiếc bè? Ở đây, chư Tỷ-kheo, người đó sau khi vượt qua bờ bên kia, có thể suy nghĩ: “Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta. Nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân đã vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Nay ta hãy kéo chiếc bè này lên trên bờ đất khô, hay nhận chìm xuống nước, và đi đến chỗ nào ta muốn”. Chư Tỷ-kheo, làm như vậy, người đó làm đúng sở dụng chiếc bè ấy. Cũng vậy, này chư Tỷ-kheo, Ta thuyết pháp như chiếc bè để vượt qua, không phải để nắm giữ lấy.

Chư Tỷ-kheo, các ngươi cần hiểu ví dụ cái bè. Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp.

(CÁC KIẾN XỨ)

Này các Tỷ-kheo, có sáu kiến xứ. Thế nào là sáu? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có kẻ vô văn phàm phu, không đi đến yết kiến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không đi đến yết kiến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân, xem sắc pháp: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta”, xem cảm thọ: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta”, xem tưởng: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta”, xem các hành: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta”, xem cái gì được thấy, được nghe, được cảm xúc, được ý thức, được đạt tới, được tìm cầu, được ý suy tư: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta”, và bất cứ kiến xứ nào đều nói rằng: “Ðây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết, ta sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, ta sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi”, xem như vậy là: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta”.

Và này chư Tỷ-kheo, có vị Ða văn Thánh đệ tử đi đến yết kiến các bậc Thánh, thuần thục các pháp bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến yết kiến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân, xem sắc pháp: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta”, xem cảm thọ: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta”, xem tưởng: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta”, xem các hành: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta”, xem cái gì được thấy, được nghe, được cảm xúc, được ý thức, được đạt tới, được tìm cầu, được ý suy tư: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta”, và bất cứ kiến xứ nào đều nói rằng: “Ðây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết ta sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, ta sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi”, xem như vậy là: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta”. Vị này do quán sát như vậy, đối với sự vật chẳng thật có nên không có lo âu, phiền muộn.

Ðược nghe nói vậy, một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:

– Có thể có cái gì không thực có ở ngoài, có thể gây lo âu phiền muộn?

Thế Tôn đáp:

– Có thể có, này Tỷ-kheo, ở đây, có người nghĩ như sau: “Cái gì chắc chắn đã là của ta, nay chắc chắn không còn là của ta. Cái gì chắc chắn có thể là của ta, chắc chắn ta không được cái ấy”. Người đó sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh. Này Tỷ-kheo, như vậy, có cái không thực có ở ngoài, có thể gây lo âu, phiền muộn.

– Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thực có ở ngoài, có thể không gây lo âu phiền muộn?

Thế Tôn đáp:

– Có thể có, này Tỷ-kheo, ở đây, này Tỷ-kheo, có người không nghĩ như sau: “Cái gì chắc chắn đã là của ta, nay chắc chắn không còn là của ta. Cái gì chắc chắn có thể là của ta, chắc chắn ta không được cái ấy”. Người đó không sầu muộn, than vãn, khóc lóc, không đấm ngực, không đi đến bất tỉnh. Như vậy, này Tỷ-kheo, có cái không thực có ở ngoài, không gây lo âu phiền muộn.

– Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thực có ở trong có thể gây ra lo âu phiền muộn?

Thế Tôn đáp:

– Có thể có, này Tỷ-kheo, ở đây, này Tỷ-kheo, có người có tà kiến như sau: “Ðây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết, ta sẽ thường còn, thường hằng, thường trú không biến chuyển. Ta sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi”. Người này nghe Như Lai hay đệ tử Như Lai thuyết pháp để bạt trừ tất cả kiến xứ, cố chấp, thiên chấp, thiên kiến, tùy miên, sự tịnh chỉ mọi hành động, sự từ bỏ mọi sanh y, sự diệt trừ khát ái đưa đến ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Người đó có thể nghĩ như sau: “Chắc chắn ta sẽ bị đoạn diệt, chắc chắn ta sẽ bị hoại diệt, chắc chắn ta sẽ không tồn tại”. Người đó sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh. Này Tỷ-kheo, như vậy là có cái không thực có ở trong có thể gây ra lo âu phiền muộn.

– Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thực có ở trong, không gây ra lo âu, phiền muộn?

Thế Tôn đáp:

– Có thể có, này Tỷ-kheo, ở đây, có người không có tà kiến như sau: “Ðây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết, ta sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, ta sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi”. Người này nghe Như Lai hay đệ tử Như Lai thuyết pháp để bạt trừ tất cả kiến xứ, cố chấp, thiên chấp, thiên kiến, tùy miên, sự tịnh chi mọi hành động, sự từ bỏ mọi sanh y, sự diệt trừ khát ái để đưa đến ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Vị ấy không nghĩ như sau: “Chắc chắn ta sẽ bị đoạn diệt, chắc chắn ta sẽ bị hoại diệt, chắc chắn ta sẽ không tồn tại”. Vị ấy không sầu muộn, than vãn, khóc lóc; vị ấy không đấm ngực, không đi đến bất tỉnh. Này các Tỷ-kheo, như vậy là có cái không thực có ở trong, không gây ra lo âu, phiền muộn.

(VÔ THƯỜNG VÀ VÔ NGÃ)

Này các Tỷ-kheo, các ngươi có thể nắm giữ một vật sở hữu gì, và vật sở hữu được nắm giữ ấy sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không chuyển biến, có thể trú như thế này mãi mãi không? Chư Tỷ-kheo, các ngươi có thể thấy một vật sở hữu nào được nắm giữ và vật sở hữu được nắm giữ ấy sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không chuyển biến, có thể trú như thế này mãi mãi không?

– Bạch Thế Tôn, không.

– Lành thay, này các Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, Ta cũng không thấy một vật sở hữu được nắm giữ nào, mà vật sở hữu được nắm giữ ấy sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không chuyển biến, có thể trú như thế này mãi mãi. Này các Tỷ-kheo, các ngươi có thể chấp thủ Ngã luận thủ nào mà Ngã luận thủ ấy được chấp thủ như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không? Này các Tỷ-kheo, các ngươi có thấy Ngã luận thủ nào mà Ngã luận thủ ấy được chấp thủ như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?

– Bạch Thế Tôn không.

– Lành thay, này các Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, Ta cũng không thấy Ngã luận thủ nào mà Ngã luận thủ ấy được chấp thủ như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não. Này các Tỷ-kheo, các ngươi có kiến y nào, mà kiến y ấy được y chỉ như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không? Này các Tỷ-kheo, các ngươi có thấy kiến y nào, mà kiến y ấy được y chỉ như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?

– Bạch Thế Tôn, không

– Lành thay, này các Tỷ-kheo! Này các Tỷ-kheo, Ta cũng không thấy một kiến y nào, mà kiến y ấy được y chỉ như vậy, lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não. Chư Tỷ-kheo, nếu có ngã thời có ngã sở thuộc của ta không?

– Bạch Thế Tôn, có.

– Chư Tỷ-kheo, nếu có ngã sở thuộc, thời có ngã của ta không?

– Bạch Thế Tôn, có.

– Chư Tỷ-kheo, nếu ngã và ngã sở thuộc không thể được chấp nhận là thường còn, thường hằng, thì kiến xứ này: “Ðây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết ta sẽ thành thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, ta sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi”. Này các Tỷ-kheo, kiến xứ ấy là hoàn toàn, triệt để chẳng ngu si không?

– Bạch Thế Tôn, làm sao có thể hoàn toàn, triệt để chẳng ngu si được!

– Này các Tỷ-kheo, các ngươi nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường?

– Bạch Thế Tôn, vô thường.

– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

– Bạch Thế Tôn, khổ.

– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thì có hợp lý chăng khi chánh quán cái ấy là: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta”?

– Bạch Thế Tôn, không.

– Chư Tỷ-kheo, cảm thọ là thường hay vô thường?

– Bạch Thế Tôn, là vô thường.

– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

– Bạch Thế Tôn, là khổ.

– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại thì có hợp lý chăng khi chánh quán cái ấy là: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta”?

– Bạch Thế Tôn, không.

– Chư Tỷ-kheo, tưởng là thường hay vô thường?

– Bạch Thế Tôn, vô thường.

– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại thì có hợp lý chăng khi chánh quán cái ấy là: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta”?

– Bạch Thế Tôn, không.

– Chư Tỷ-kheo, các hành là thường hay vô thường… chư Tỷ-kheo, thức là thường hay vô thường?

– Bạch Thế Tôn, vô thường.

– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

– Bạch Thế Tôn, khổ.

– Cái gì vô thường, khổ thì có hợp lý chăng, khi chánh quán cái ấy là: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta”?

– Bạch Thế Tôn, không.

– Do vậy, này các Tỷ-kheo, bất cứ các sắc pháp nào, quá khứ, tương lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc pháp là: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta”, cần phải như thật quán với chánh trí tuệ. Bất cứ cảm thọ nào… Bất cứ tưởng nào… Bất cứ hành nào… Bất cứ thức nào, quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả thức là: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải tự ngã của ta”, cần phải như thật quán với chánh trí tuệ.

Chư Tỷ-kheo, nhờ thấy vậy, vị Ða văn Thánh đệ tử yểm ly đối với sắc, yểm ly đối với thọ, yểm ly đối với tưởng, yểm ly đối với hành, yểm ly đối với thức, do yểm ly nên ly tham, do ly tham, nên được giải thoát, trong sự giải thoát có trí khởi lên, biết được đã giải thoát. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở lui tại đây với một đời sống khác”.

(BẬC A-LA-HÁN)

Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là vị đã vất bỏ đi các chướng ngại vật, là vị đã lấp đầy các thông hào, là vị đã nhổ lên cột trụ, là vị đã mở tung các lề khóa, là bậc Thánh đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy.

Và thế nào là Tỷ-kheo đã vất bỏ đi các chướng ngại? Ở đây, này các Tỷ-kheo, là đã đoạn trừ vô minh, cắt tận gốc rễ, làm cho như cây ta-la bị chặt đầu, khiến không thể tái sanh trong tương lai, không có khả năng sanh khởi. Chư Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã vất bỏ đi các chướng ngại.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã lấp đầy các thông hào? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ tái sanh và sự luân chuyển sanh tử, đã cắt tận gốc rễ, làm cho như cây ta-la bị chặt đầu, khiến không thể tái sanh trong tương lai, không có khả năng sanh khởi. Chư Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã lấp đầy thông hào.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã nhổ lên cột trụ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ khát ái, đã cắt tận gốc rễ, làm cho như cây ta-la bị chặt đầu, khiến không thể tái sanh trong tương lai, không có khả năng sanh khởi. Chư Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã nhổ lên cột trụ.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã mở tung các lề khóa? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, đã cắt tận gốc rễ, làm cho như cây ta-la bị chặt đầu, khiến không thể tái sanh trong tương lai, không có khả năng sanh khởi. Chư Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã mở tung các lề khóa.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo bậc Thánh, đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ ngã mạn, đã cắt tận gốc rễ, làm cho như cây ta-la bị chặt đầu, khiến không thể tái sanh trong tương lai, không có khả năng sanh khởi. Chư Tỷ-kheo, như vậy là vị Tỷ-kheo bậc Thánh, đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy.

Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã giải thoát như vậy, thì chư Thiên ở Ðế thích Thiên giới, Phạm thiên giới, Sanh chủ giới sẽ không tìm được dấu vết của Tỷ-kheo ấy, nếu nghĩ rằng: “Y ở đây, có thức của Như Lai”. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, Ta nói ngay ở hiện tại, một Như Lai không thể tìm thấy dấu vết.

(XUYÊN TẠC NHƯ LAI)

Chư Tỷ-kheo, Ta nói như vậy, thuyết như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn xuyên tạc Ta một cách phi chơn, hồ đồ, hư vọng, không thực: “Sa-môn Gotama chủ trương chủ nghĩa hư vô, đề cao đoạn diệt, hủy diệt, sự tiêu diệt các hữu tình”. Nhưng này các Tỷ-kheo, Ta không là như vậy, Ta không nói như vậy, Ta không như các Sa-môn, Bà-la-môn ấy đã xuyên tạc một cách phi chơn, hồ đồ, hư vọng, không thật: “Sa-môn Gotama chủ trương chủ nghĩa hư vô, đề cao đoạn diệt, hủy diệt, sự tiêu diệt các hữu tình”.

Chư Tỷ-kheo, xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ. Chư Tỷ-kheo, nếu ở đây những người khác nhiếc mắng, phỉ báng, làm cho Như Lai tức giận, thì này các Tỷ-kheo, ở đây, Như Lai không có sân hận, không có bất mãn, tâm không phẫn nộ. Chư Tỷ-kheo, nếu ở đây, những người khác cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường Như Lai, thì này các Tỷ-kheo, ở đây Như Lai không có hoan hỷ, sung sướng, tâm không thích thú. Chư Tỷ-kheo, nếu những người khác cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường Như Lai, thì này các Tỷ-kheo, ở đây Như Lai suy nghĩ: “Ðây là điều xưa kia đã từng biết rõ: Ở đây là trách nhiệm Như Lai phải làm”.

Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu có những người khác nhiếc mắng, phỉ báng, làm cho các ngươi tức giận, ở đây các ngươi chớ có sân hận, bất mãn, tâm chớ khởi phẫn nộ. Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu có những người khác cung kính, tôn trọng, lễ bái cúng dường các ngươi, thì ở đây, các ngươi chớ có hoan hỷ, sung sướng, tâm sanh thích thú. Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu có những người khác cung kính, tôn trọng, lễ bái cúng dường các ngươi, thì ở đây, các ngươi hãy suy nghĩ: “Ðây là điều xưa kia đã từng biết rõ, đây là những trách nhiệm ta phải làm”.

(KHÔNG CHẤP THỦ 5 UẨN)

Do vậy, này các Tỷ-kheo, cái gì không phải của các ngươi, các ngươi hãy từ bỏ. Các ngươi từ bỏ, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các ngươi. Chư Tỷ-kheo, cái gì không phải của các ngươi? Chư Tỷ-kheo, sắc không phải của các ngươi, hãy từ bỏ sắc. Các ngươi từ bỏ sắc sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các ngươi. Chư Tỷ-kheo, thọ không phải của các ngươi, hãy từ bỏ thọ. Các ngươi từ bỏ thọ sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các ngươi. Chư Tỷ-kheo, tưởng không phải của các ngươi, hãy từ bỏ tưởng. Các ngươi từ bỏ tưởng sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các ngươi. Chư Tỷ-kheo, các hành không phải của các ngươi, hãy từ bỏ các hành. Các ngươi từ bỏ các hành sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các ngươi. Chư Tỷ-kheo, thức không phải của các ngươi, hãy từ bỏ thức. Các ngươi từ bỏ thức sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các ngươi.

Chư Tỷ-kheo, các ngươi nghĩ thế nào? Trong rừng Jetavana này, nếu có người thâu lượm cỏ, cây, nhành, lá, rồi đốt hay làm với chúng tùy theo ý muốn, các ngươi có nghĩ chăng? Người ấy thâu lượm chúng ta, đốt chúng ta hay làm với chúng ta tùy theo ý muốn?

– Bạch Thế Tôn, không. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, vì nó không phải tự ngã hay không phải sở thuộc của ngã.

– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, cái gì không phải của các ngươi, các ngươi hãy từ bỏ. Các ngươi từ bỏ sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các ngươi. Chư Tỷ-kheo, và cái gì không phải của các ngươi? Chư Tỷ-kheo, sắc không phải của các ngươi, hãy từ bỏ sắc. Các ngươi từ bỏ sắc sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các ngươi. Chư Tỷ-kheo, thọ… tưởng… hành… Chư Tỷ-kheo, thức không phải của các ngươi, hãy từ bỏ thức. Các ngươi từ bỏ thức sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các ngươi.

(PHÁP ĐƯỢC KHÉO GIẢNG)

Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được Ta khéo giảng, làm cho tỏ lộ, làm cho khai thông, làm cho khai thị, được loại trừ các vải quấn cũ. Chư Tỷ-kheo, vì pháp được Ta khéo giảng, làm tỏ lộ, làm cho khai thông, làm cho khai thị, được loại trừ các vải quấn cũ, nên những vị Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, việc nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, lý tưởng đã thành đạt, hữu kiết sử đã đoạn trừ, được giải thoát nhờ chánh trí, vòng luân chuyển (sanh tử) của những vị này không thể chỉ bày.

Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được Ta khéo giảng… được loại trừ các vải quấn cũ. Chư Tỷ-kheo, vì pháp được Ta khéo giảng, được loại trừ các vải quấn cũ, nên những Tỷ-kheo nào đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, thì những vị này thành các vị hóa sanh, nhập diệt tại đây, không còn phải trở lui vào đời này nữa.

Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được Ta khéo giảng… được loại trừ các vãi quấn cũ. Chư Tỷ-kheo, vì pháp được Ta khéo giảng… được loại trừ các vải quấn cũ, nên những Tỷ-kheo nào đã đoạn trừ ba kiết sử, đã làm cho muội lược tham sân si, thì tất cả những vị ấy thành bậc Nhất Lai, chỉ đến đời này một lần nữa sẽ diệt tận khổ đau.

Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được Ta khéo giảng… được loại trừ các vãi quấn cũ. Chư Tỷ-kheo, vì pháp được Ta khéo giảng… được loại trừ các vải quấn cũ, nên những Tỷ-kheo nào đoạn trừ ba kiết sử, thì tất cả những vị ấy trở thành bậc Dự Lưu, không còn bị đọa lạc ác thú, quyết định hướng đến Chánh giác.

Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được Ta khéo giảng… được loại trừ các vải quấn cũ. Chư Tỷ-kheo, vì pháp được ta khéo giảng… được loại trừ các vải quấn cũ, nên những Tỷ-kheo nào là những vị tùy pháp hành, tùy tín hành, thì tất cả những vị này sẽ hướng về Chánh giác.

Chư Tỷ-kheo, như vậy pháp được Ta khéo giảng… được loại trừ khỏi các vải quấn cũ. Chư Tỷ-kheo, vì pháp được Ta khéo giảng, làm cho tỏ lộ, làm cho khai thông, làm cho khai thị, được loại trừ các vải quấn cũ, nên những vị nào chỉ đủ lòng tin nơi Ta, chỉ đủ lòng thương mến đối với Ta, thì tất cả những vị ấy được hướng về chư Thiên.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Những Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.

(HẾT KINH VÍ DỤ CON RẮN)

KINH BĀHIYA DĀRUCIRIYA

(Tiểu Bộ, Kinh Phật Tự Thuyết, Chương I.10)

 

Như vậy ta nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatthi, tại Jetavana, Tinh xá Anāthapindika.

Lúc bấy giờ, Bāhiya Daruciriya trú ở Suppāraka, trên bờ biển, được cung kính, tôn trọng đảnh lễ, cúng dường và nhận được y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Rồi Bāhiya Dācuciriya khởi lên tư tưởng như sau: “Với ai là bậc A-la-hán hay đang đi trên con đường A-la-hán, ta là một trong những vị ấy”.

Rồi một Thiên nhân, trước là bà con huyết thống với Bāhiya Dāruciriya, vì lòng từ mẫn, vì muốn lợi ích, với tâm của mình biết tâm tư của Bāhiya Dāruciriya, đi đến Bāhiya Dāruciriya và nói như sau:

– Này Bāhiya, ngươi không phải là A-la-hán hay đang đi trên con đường A-la-hán. Ngươi không có đạo lộ ấy, với đạo lộ này ngươi không có thể trở thành A-la-hán hay đang đi trên con đường đưa đến A-la-hán.

– Nhưng ai là những vị, trong thế giới này, với thế giới chư Thiên là những vị A-la-hán hay đang đi trên con đường A-la-hán?

– Này Bāhiya, có một thành phố ở phương Bắc tên là Sāvatthi. Tại đấy có Thế Tôn hiện đang trú, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Vị ấy là bậc A-la-hán và thuyết pháp đưa đến quả A-la-hán.

Rồi Bāhiya Dāruciriya, được Thiên nhân ấy thúc dục, đi ra khỏi Sappāraka, trong suốt đường trường, chỉ nghỉ một đêm, đi đến chỗ Thế Tôn đang trú ở Sāvatthi, tại Jetavana, trong khu vườn Anāthapindika. Lúc bấy giờ nhiều Tỷ-kheo đang đi kinh hành ngoài trời. Bāhiya Dāruciritya đi đến các Tỳ-kheo ấy, sau khi đến nói như sau:

– Thưa các Tôn giả, nay Thế Tôn, bậc A-la-hán Chánh Ðẳng Giác ở đâu? Chúng tôi muốn được yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.

– Này Bāhiya, Thế Tôn đã đi vào giữa các nhà ở Sāvatthi để khất thực.

– Rồi Bāhiya Dāraciriva mau chóng ra khỏi Jetavana, đi vào Sāvatthi, và thấy Thế Tôn đang đi khất thực, khả ái, khởi lên tịnh tín, các căn an tịnh, tâm ý an tịnh, đạt được an chỉ, chế ngự tối thượng, giống như một con voi được điều phục, phòng hộ với các căn an tịnh. Thấy vậy, Bāhiya Dāruciriya liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến, cúi đầu xuống chân Thế Tôn và bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con, Thiện Thệ hãy thuyết pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc an lạc lâu dài.

Khi được nói vậy, Thế Tôn nói với Bāhiya:

– Không phải thời, này Bāhiya, Như Lai đang khất thực.

– Lần thứ hai Bāhiya bạch Thế Tôn:

– Thật khó biết, bạch Thế Tôn, là chướng ngại cho mạng sống của Thế Tôn, hay chướng ngại cho mạng sống của con. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con. Thiện Thệ hãy thuyết pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc an lạc lâu dài.

– Lần thứ hai, Thế Tôn nói với Bāhiya:

– Không phải thời, này Bāhiya, Như Lai đang khất thực.

– Lần thứ ba, Bāhiya bạch Thế Tôn:

– Thật khó biết, bạch Thế Tôn, là chướng ngại cho mạng sống của Thế Tôn, hay chướng ngại cho mạng sống của con. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con. Thiện Thệ hãy thuyết pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc an lạc lâu dài.

– Vậy này Bàhiya, ngươi cần phải học tập như sau: “Trong cái thấy, chỉ là cái thấy; trong cái nghe, chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, chỉ là các thức tri”. Như vậy, này Bāhiya, ngươi cần phải học tập. Vì rằng, này Bāhiya, nếu với ngươi, trong cái thấy, chỉ là cái thấy; trong cái nghe, chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, chỉ là cái thức tri, thời này Bāhiva, do vậy ngươi không là chỗ ấy; vì vậy, này Bàhiya, ngươi không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau.”

– Nhờ lời thuyết pháp tóm tắt này của Thế Tôn, tâm của Bāhiya Dāruciriya được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ. Thế Tôn sau khi thuyết cho Bāhiya Dāruciriya lời giáo giới tóm tắt này, liền ra đi. Thế Tôn ra đi không bao lâu, một con bò con húc chết Bāhiya Dāruciriya. Thế Tôn sau khi khất thực ở Sāvatthi xong, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, đi ra khỏi thành với nhiều Tỷ-kheo, thấy Bāhiya Dāruciriya bị chết, thấy vậy liền nói với các Tỳ-kheo:

– Này các Tỳ-kheo, hãy lấy thân xác Bāhiya Dāruciriya, đặt lên trên cái chõng, đem đi hỏa thiêu, rồi xây tháp lên trên. Này các Tỷ-kheo, một vị đồng Phạm hạnh với các vị đã qua đời!

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, sau khi đặt xác thân của Bāhiya Dāruciriya lên trên cái chõng, đem đi hỏa thiêu, xây dựng cái tháp cho vị ấy, rồi đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, thân xác của Bāhiya Dāruciriya đã được hỏa thiêu, tháp đã được xây dựng xong cho vị ấy. Sanh thú cho vị ấy là gì? Ðời sau vị ấy là gì?

– Này các Tỷ-kheo, Hiền trí là Bāhiya Dāruciriya! Vị ấy đã hành trì tùy pháp, đúng pháp và không có phiền nhiễu Như Lai với những tranh luận về pháp. Này các Tỷ-kheo, Bāhiya Dāruciriya đã nhập Niết Bàn.

Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:

Chỗ nào nước và đất,
Lửa, gió không chấp trước
Tại đây (ngôi) sao không chói
Mặt trời không chiếu sáng
Tại đây trăng không chiếu
Tại đây u ám không.

Khi ẩn sĩ Phạm chí
Tự mình với trí tuệ
Thể nhập vào Chánh pháp
Vị ấy được giải thoát
Khỏi sắc và vô sắc
Khỏi an lạc, đau khổ.

Lời cảm hứng này được Thế Tôn thuyết giảng và ta được nghe như vậy.

(HẾT KINH BĀHIYA DĀRUCIRIYA)

KINH KIM CANG

BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập
Việt dịch và chú thích: Thích Thiện Thái

Như vậy ta nghe.

Một thời, Thế Tôn trú tại Tinh xá Kỳ Viên, thành  Xá Vệ, cùng với đại chúng Tỳ-kheo, một nghìn hai trăm năm mươi vị A-la-hán tập hội.

Bấy giờ, vào buổi sáng, Thế Tôn đắp y, cầm bát, vào thành Xá Vệ khất thực. Trong thành ấy, Phật thứ tự hóa duyên từng nhà. Khất thực xong, Phật trở về tinh xá, thọ trai, rồi cất y bát. Sau khi thọ trai xong, Phật rửa chân, trải tòa an tọa.

Bấy giờ, Trưởng lão Tu-bồ-đề, ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y, vén áo bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay, cung kính bạch Phật rằng:

Hi hữu thay Thế Tôn! Đức Như Lai khéo hộ niệm các vị Bồ-tát và khéo phó chúc cho các vị Bồ-tát. Bạch Thế Tôn, khi một người thiện nam, thiện nữ nào phát tâm Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, vị ấy phải trụ tâm như thế nào và hàng phục tâm như thế nào?

Phật dạy: Lành thay! Lành thay! Này Tu-bồ-đề, đúng như lời của ngươi vừa nói, Như Lai khéo hộ niệm các vị Bồ-tát và khéo phó chúc các vị Bồ-tát. Hãy khéo lắng nghe, Ta sẽ vì ngươi mà nói phương pháp mà một người Thiện nam, Thiện nữ khi phát tâm Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác cần phải trụ tâm và hàng phục tâm như thế nào.

Kính vâng, bạch Thế Tôn. Thật lành thay, nếu chúng con được nghe lời giảng của Thế Tôn.

Phật dạy: Này Tu-bồ-đề, tất cả các vị Bồ-tát và đại Bồ-tát phải hàng-phục tâm như thế này: Bao nhiêu những loài chúng sanh, hoặc noãn sanh, hoặc thai sanh, hoặc thấp sanh, hoặc hóa sanh, hoặc có hình sắc, hoặc không hình sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc không phải có tưởng cũng không phải không tưởng, vị ấy đều làm cho tất cả được diệt độ và nhập vô dư Niết-bàn. Mặc dù vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh đều được vị ấy giúp đưa vào vô dư Niết-bàn như thế, vị ấy vẫn không chấp trước, và thấy rằng không có thật chúng sanh nào được diệt độ cả.

Tại sao vậy, này Tu-bồ-đề? Vì rằng nếu một vị Bồ-tát vẫn còn chấp trước vào ý niệm về ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, thì vị ấy chẳng phải là Bồ-tát chân thật.

Lại nữa, này Tu-bồ-đề, khi tu hạnh bố-thí, tâm của vị Bồ-tát không có chỗ trụ. Nghĩa là, vị ấy bố thí với tâm không chấp thủ đối với sắc, không chấp thủ đối với thanh, hương, vị, xúc và pháp. Tu-bồ-đề, một vị Bồ-tát phải nên bố-thí như thế, chẳng trụ trước đối với mọi sự tướng. Nếu vị Bồ-tát bố thí mà không chấp thủ đối với sự tướng thì phước đức của vị ấy nhiều không thể suy lường.

Này Tu-bồ-đề, ngươi nghĩ thế nào, có thể suy lường được hư không ở phương Đông chăng? Bạch Thế Tôn, không thể suy lường được.

Này Tu-bồ-đề, ngươi có thể suy lường được hư không ở phương Nam, phương Tây, phương Bắc, hư không ở bốn hướng cạnh, hư không ở phương Thượng và phương Hạ chăng?

Bạch Thế Tôn, không thể suy lường được.

Này Tu-bồ-đề, nếu vị Bồ-tát bố thí mà không trụ trước nơi tướng, thời công đức của vị ấy cũng rộng lớn như thế, không thể suy lường. Tu-bồ-đề, tâm của một vị Bồ-tát phải nên đúng như lời dạy như thế mà trụ.

Tu-bồ-đề, ngươi nghĩ thế nào, Như Lai có thể được thấy bởi sắc tướng chăng?

Bạch Thế Tôn, Như Lai không thể được thấy bởi sắc tướng. Vì sao? Vì Đức Như Lai nói thân tướng, mà chẳng phải thật thân tướng.

Này Tu-bồ-đề, tướng của các pháp đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng đều là không thật tướng, thời chính là thấy Như Lai.

Bạch Thế Tôn, nếu có chúng sanh nào được nghe những lời giảng dạy này mà có thể phát lòng tin chân thật và có thể lĩnh hội được chăng?

Phật dạy: Này Tu-bồ-đề, ngươi chớ nói như thế! Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau, nếu có người trì giới, tu phước, họ đều có kết quả trong phước lành. Những người này đều có thể phát sanh lòng tin đối với những lời dạy này, và họ có khả năng thể nhập chân lý. Ngươi nên biết rằng những người này không phải chỉ vun trồng căn lành từ nơi một đức Phật, hai đức Phật, ba, bốn, năm đức Phật, mà họ đã vun trồng căn lành từ nơi vô lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật. Trong số đó, nếu như có ai được nghe những lời dạy này, phát sanh lòng tin trong sạch, cho đến chừng trong khoảng một niệm, thời này Tu-bồ-đề, Như Lai đều thấy, đều biết vị ấy. Những chúng sanh đó có phước đức vô lượng. Vì sao? Vì những chúng sanh đó đã tẩy sạch những ý niệm sai lầm về tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, tướng pháp và tướng phi pháp. Vì sao? Vì những chúng sanh đó, nếu chấp tướng, thời sẽ còn chấp thủ vào ý niệm về ngã, nhân, chúng sanh và thọ giả; nếu chấp Pháp, thời sẽ còn chấp thủ vào ý niệm về ngã, nhân, chúng sanh và thọ giả; còn nếu chấp tướng phi Pháp, thời cũng chấp thủ vào ý niệm về ngã, nhân, chúng sanh và thọ giả. Vì vậy, chẳng nên chấp Pháp và cũng chẳng nên chấp phi Pháp. Cũng bởi ý nghĩa đó, Như Lai nói rằng: “Này các Tỳ-kheo, phải biết rằng, các Pháp mà Như Lai tuyên thuyết, giải thích, dụ như chiếc bè, ngay cả chánh Pháp còn phải xả bỏ, huống nữa là phi Pháp!”

Này Tu-bồ-đề, ngươi nghĩ thế nào, Như Lai có thật chứng quả Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác chăng? Như Lai có thật thuyết Pháp chăng?

Bạch Thế Tôn, như con hiểu ý nghĩa lời Phật, thời không có Pháp nhất định nào được gọi là Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, cho nên không có thật chứng, và cũng không có Pháp nhất định nào mà đức Như Lai có thể thuyết. Vì sao? Vì Pháp mà đức Như Lai thuyết, đều không thể nắm giữ, không thể nói được; Pháp đó chẳng phải thật Pháp, cũng chẳng phải phi Pháp. Vì sao? Vì tất cả hiền thánh, đều do nơi Pháp vô vi mà có từng bực khác nhau.

Này Tu-bồ-đề, ngươi nghĩ thế nào, như có người đem bảy báu đầy cả cõi tam thiên đại thiên để tu hạnh bố thí, phước đức của người đó có nhiều chăng?

Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Vì sao? Vì phước đức không phải thật phước đức, cho nên đức Như Lai nói là phước đức nhiều.

Này Tu-bồ-đề, mặt khác, nếu như có người, đối với Kinh này, có thể thọ trì chừng một bài kệ bốn câu, và lại giảng nói cho người khác tỏ ngộ, thời phước đức người này vượt trội hơn người trước. Vì này Tu-bồ-đề, tất cả các đức Phật, và Pháp Vô thượng Chánh-đẳng Chánh-giác của các đức Phật đều khởi từ Kinh này.

Này Tu-bồ-đề, ngươi nên biết rằng, ngay cả điều được gọi là Phật Pháp cũng chẳng phải là thật Phật Pháp.

Này Tu-bồ-đề, ngươi nghĩ thế nào, một vị Tu-đà-hoàn có thể nghĩ rằng ta được quả Tu-đà-hoàn chăng?

Bạch Thế Tôn, không thể được. Vì sao? Vì Tu-đà-hoàn có nghĩa là Nhập Lưu, nhưng không có thật sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nào để nhập vào, do vậy, vị ấy được gọi là Tu-đà-hoàn.

Này Tu-bồ-đề, ngươi nghĩ thế nào, một vị Tư-đà-hàm có thể nghĩ rằng ta được quả Tư-đà-hàm chăng?

Bạch Thế Tôn, không thể được. Vì sao? Vì Tư-đà-hàm có nghĩa là Nhất-Vãng-Lai, nhưng không có gì là thật vãng lai, do vậy, vị ấy được gọi là Tư-đà-hàm.

Này Tu-bồ-đề, ngươi nghĩ thế nào, một vị A-na-hàm có thể nghĩ rằng ta được quả A-na-hàm chăng?

Bạch Thế Tôn, không thể được. Vì sao? Vì A-na-hàm có nghĩa là Bất-Lai, nhưng không có một vật gì là thật bất-lai, do vậy, vị ấy được gọi là A-na-hàm.

Này Tu-bồ-đề, ngươi nghĩ thế nào, một vị A-la-hán có thể nghĩ rằng ta được quả A-la-hán chăng?

Bạch Thế Tôn, không thể được. Vì sao? Vì không có một thật pháp gì được gọi là A-la-hán. Bạch Thế Tôn! Nếu như vị A-la-hán nghĩ thế này: “Ta chứng được quả vị A-la-hán”, thời vị ấy vẫn còn chấp thủ ý niệm về ngã, nhân, chúng sanh và thọ giả.

Bạch Thế Tôn, đức Phật tuyên bố rằng con được môn “Vô-tranh tam-muội”, là bậc nhất trong mọi người. Vì vậy, con là bậc A-la-hán ly dục đệ nhất. Bạch Thế Tôn, con không nghĩ rằng con được thật quả A-la-hán ly dục, nếu con nghĩ con đắc A-la-hán thời chắc Đức Thế Tôn đã chẳng nói: “Tu-bồ-đề là người ưa hạnh tịch-tịnh và thoát khỏi mọi tạp nhiễm.” Do vì Tu-bồ-đề không khởi một niệm, mới gọi là người ưa hạnh tịch tịnh.

Phật dạy: Này Tu-bồ-đề, ngươi nghĩ thế nào, Như Lai thuở xưa, có chứng đắc Pháp gì ở chỗ Phật Nhiên Đăng chăng?

Bạch Thế Tôn, khi đức Như Lai ở chỗ Phật Nhiên Đăng, Ngài không thật chứng đắc một Pháp gì.

Này Tu-bồ-đề, ngươi nghĩ thế nào, Bồ-tát có trang nghiêm Phật độ chăng?

Bạch Thế Tôn! Không có. Vì sao? Bởi vì trang nghiêm Phật-độ, chẳng phải thật trang nghiêm Phật độ, mà nói là trang nghiêm Phật độ.

Này Tu-bồ-đề, vì thế các vị Bồ-tát và đại Bồ-tát, phải nên thành tựu tuệ giác như thế này: Chẳng nên trụ trước nơi sắc, chẳng nên trụ trước nơi thanh, hương, vị, xúc, và pháp; và nên thành tựu trí tuệ ở chỗ không chấp trước bất cứ điều gì.

Này Tu-bồ-đề, giả sử có người, thân thể như núi Tu Di, ngươi nghĩ thế nào, thân của người đó có to lớn chăng?

Bạch đức Thế Tôn, rất to lớn. Vì sao? Vì đức Phật nói thân chẳng phải thật thân, mà nói là thân lớn.

Này Tu-bồ-đề, nếu sông Hằng có bao nhiêu số cát, mỗi hạt cát là một sông Hằng. Ở đây, ngươi nghĩ thế nào, tổng số cát trong tất cả sông đó có nhiều chăng?

Bạch Thế Tôn, rất nhiều. Chỉ nói số lượng con sông đã là nhiều vô lượng vô số, không thể tính đếm rồi, huống nữa là số cát của tất cả các con sông ấy!

Này Tu-bồ-đề, nếu có người thiện nam, thiện nữ nào đem bảy báu đầy cả hằng-hà sa-số tam-thiên đại-thiên thế giới để tu hạnh bố-thí, người đó được phước có nhiều không?

Bạch Thế Tôn, rất nhiều.

Này Tu-bồ-đề, nay Ta nói rằng: Nếu có người thiện nam, thiện nữ nào thọ trì trong tâm, dù chỉ một bài kệ bốn câu của Kinh này và giảng nói cho người khác tỏ ngộ, thời phước đức người này vượt hẳn phước đức của người bố thí kia. Lại nữa, này Tu-bồ-đề, ở nơi nào có giảng nói Kinh này, dù chỉ một bài kệ bốn câu, phải biết nơi đó, tất cả Trời, Người, A-tu-la trong đời đều nên cúng dường như cúng dường tháp miếu Như Lai, huống nữa là, có người nào thọ trì, đọc tụng trọn cả Kinh này! Này Tu-bồ-đề, phải biết người thọ trì Kinh này sẽ thành tựu pháp giải thoát tối thượng, hy hữu bậc nhất. Còn nếu Kinh này có mặt ở đâu, thời nơi đó chính là nơi có các đức Phật, đệ tử Phật, và các thánh hiền hộ niệm.

Bấy giờ Tôn giả Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, Kinh này tên gọi là gì? Đệ tử chúng con cần phải phụng trì như thế nào?

Phật bảo Tu-bồ-đề: Kinh này tên là “Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật”, hãy theo danh tự và ý nghĩa ấy mà phụng trì. Nhưng này Tu-bồ-đề, Như Lai nói Bát-nhã Ba-la-mật, chẳng phải thật Bát-nhã ba-la-mật, mà nói là Bát-nhã Ba-la-mật.

Này Tu-bồ-đề, ngươi nghĩ thế nào, Như Lai có thuyết Pháp chăng?

Bạch Thế Tôn, Như Lai không nói một lời nào.

Này Tu-bồ-đề, ngươi nghĩ thế nào, bao nhiêu vi trần trong cõi tam thiên, đại thiên thế giới, vi trần như thế có nhiều chăng?

Bạch Thế Tôn, rất nhiều.

Này Tu-bồ-đề, vi trần ấy, Như Lai nói chẳng phải thật vi trần, mà nói là vi trần. Như Lai nói thế giới, chẳng phải thật thế giới, mà nói là thế-giới.

Này Tu-bồ-đề, ngươi nghĩ thế nào, có thể do ba mươi hai tướng mà thấy Như Lai chăng?

Bạch Thế Tôn, chẳng có thể do ba mươi hai tướng mà thấy được Như Lai. Vì đức Thế Tôn nói ba mươi hai tướng, không phải thật tướng, mà nói là ba mươi hai tướng.

Này Tu-bồ-đề, như có người Thiện nam, Thiện nữ nào bố thí bằng cách hi sinh thân mạng nhiều như số cát sông Hằng; mặt khác, nếu lại có người thọ trì Kinh này trong tâm, ngay cả chỉ một bài kệ bốn câu, và giảng nói cho người khác nghe hiểu, thời phước của người trì Kinh nhiều hơn phước đức của người bố thí thân mạng nói trên.

Bấy giờ, sau khi Tôn giả Tu-bồ-đề nghe đức Phật nói Kinh này, thấu hiểu nghĩa lý, hoan hỷ rơi lệ mà bạch Phật rằng:

Hi-hữu thay Thế Tôn! Kinh này với nghĩa lý thâm diệu dường ấy đã được Thế Tôn diễn nói. Từ khi chứng huệ nhãn đến nay, con chưa từng được nghe lời dạy như thế này. Bạch Thế Tôn, nếu có người nào sau khi được nghe Kinh này, mà có lòng tin thanh tịnh, thời vị ấy sẽ chứng ngộ thật tướng. Phải biết người ấy sẽ thành tựu công đức hi hữu bậc nhất. Bạch Thế Tôn, thật tướng đó, chẳng phải thật tướng, mà đức Như-Lai nói là thật tướng.

Bạch Thế Tôn, nay con được nghe lời dạy này, tin hiểu và thọ trì, chẳng lấy làm khó, nhưng nếu năm trăm năm sau trong đời tương lai, mà có chúng sanh nào nghe Kinh này, có thể tin hiểu thọ trì, thời người ấy chính là hi hữu bậc nhất. Vì sao? Bởi vì người ấy phải là người không có chấp thủ tướng ngã, không có chấp thủ tướng nhân, không có chấp thủ tướng chúng sanh và không có chấp thủ tướng thọ giả. Con hiểu rằng tướng ngã không phải thật tướng, cho đến tướng nhân, tướng chúng-sanh và tướng thọ-giả, cũng đều không phải thật tướng. Thật hi hữu thay một chúng sanh giác ngộ nghĩa lý này. Vì sao? Bởi vì khi một vị xa lìa tất cả tướng, vị ấy an trú Không tánh cao thượng của bậc Đại nhân, có thể được gọi là một vị Phật.

Đúng thế! Đúng thế! Này Tu-bồ-đề, lại như có người được nghe Kinh này mà có thể thấu ngộ, lòng không kinh hãi, dao động, nhút nhát, thời phải biết người đó rất là hi-hữu.

Này Tu-bồ-đề, Như Lai nói Bố thí Ba-la-mật thứ nhất, đó chẳng phải thật Bố thí Ba-la-mật thứ nhất, mà nói là Bố thí Ba-la-mật thứ nhất.

Lại nữa, này Tu-bồ-đề, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Như Lai nói chẳng phải thật Nhẫn nhục Ba-la-mật, mà nói là Nhẫn nhục Ba-la-mật. Này Tu-bồ-đề, Như Lai thuở xưa bị vua Ca-Lợi chặt đứt thân thể. Trong lúc đó, Như Lai không có ý niệm về ngã, nhân, chúng sanh và thọ giả. Vì sao vậy? Vì thuở xưa, trong lúc thân thể Như Lai bị chặt đứt, nếu Như Lai còn có chấp thủ về ngã, nhân, chúng sanh và thọ-giả, thời lẽ ra Như Lai đã khởi lòng oán giận.

Này Tu-bồ-đề, Ta lại nhớ thuở quá khứ, trong năm trăm đời, Ta đều làm vị tiên nhẫn nhục. Trong bao nhiêu đời đó, Ta không chấp thủ về ngã, nhân, chúng sanh và thọ giả.

Này Tu-Bồ-Đề, vì thế nên khi vị Bồ tát phát tâm Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác phải lìa bỏ tất cả các chấp thủ. Tâm của Bồ tát chẳng nên trụ trước nơi sắc, chẳng nên trụ trước nơi thanh, hương, vị, xúc, và pháp. Tâm của Bồ-tát không trụ trước vào bất cứ điều gì. Nếu tâm còn có chỗ để trụ, thời chẳng phải trụ, cho nên Như Lai nói Bồ-tát bố thí chẳng trụ sắc.

Này Tu-bồ-đề, Bồ-tát bố thí chỉ vì lợi ích cho tất cả chúng-sanh. Như Lai nói tất cả tướng đều không phải thật tướng, lại nói tất cả chúng sanh chẳng phải thật chúng sanh.

Này Tu-bồ-đề, lời nói của Như Lai là lời chân chánh, tương ưng với mục đích giải thoát Niết bàn. Đó là lời chắc thật, đúng đắn, không nghiêng lệch, không thêm bớt cũng không sai khác.

Này Tu-bồ-đề, Pháp của Như Lai chứng, Pháp ấy không phải thật cũng không phải hư.

Này Tu-bồ-đề, nếu Bồ tát bố thí mà trụ trước các pháp, thời giống như người vào chỗ tối tăm, vị ấy không thể thấy được vật gì; nhưng nếu Bồ-tát bố thí không trụ trước các pháp, thời như người có mắt sáng, lại có ánh sáng mặt trời chiếu đến, vị ấy có thể thấy các thứ hình sắc.

Này Tu-bồ-đề, về đời vị lai, nếu có người thiện nam, thiện nữ nào có thể thọ trì, đọc tụng Kinh này, người ấy liền được Như Lai dùng trí Phật hộ niệm. Như Lai biết rõ vị ấy, thấy rõ vị ấy, rằng vị ấy sẽ được thành tựu vô lượng, vô biên công đức.

Này Tu-bồ-đề, giả sử có người thiện nam, thiện nữ nào vào buổi sáng, đem thân mạng bằng số cát sông Hằng để bố thí; rồi vào buổi trưa, lại đem thân mạng bằng số cát sông Hằng để bố thí; rồi vào buổi chiều cũng đem thân mạng bằng số cát sông Hằng để bố thí; vị ấy bố thí thân mạng trong vô lượng kiếp như thế; mặt khác, lại như có người nào nghe Kinh này mà sanh lòng tịnh tín, thời phước của người này hơn phước của người trước kia, huống nữa là biên chép, thọ trì, đọc tụng, giảng nói cho người khác nghe hiểu!

Này Tu-bồ-đề, tóm tắt mà nói, Kinh này phát sanh vô biên công đức không thể nghĩ bàn, không thể suy lường được. Như Lai vì người phát tâm bồ đề mà nói, vì người phát tâm rộng lớn tối thượng mà nói. Nếu người nào có thể thọ trì, đọc tụng, giảng nói rộng cho người khác nghe hiểu, thời Như Lai đều biết rõ, thấy rõ, người ấy sẽ thành tựu công đức không thể suy lường, không có ngằn mé, không thể nghĩ bàn. Người như thế chính là người có khả năng gánh vác và giữ gìn đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của Như Lai. Vì sao? Này Tu-bồ-đề, vì nếu người nào chấp trước về ngã, nhân, chúng sanh và thọ giả, thời đối với Kinh này, người ấy không thể nghe hiểu, cũng không thể đọc tụng và giảng nói cho người khác nghe hiểu được.

Này Tu-bồ-đề, nếu nơi nào có Kinh này, tất cả Trời, Người, A-tu-la trong đời đều nên cúng dường. Phải biết nơi đó chính là bảo tháp thờ toàn thân Như Lai, phải nên cung kính lễ lạy, đi nhiễu quanh, đem các món hoa hương tốt đẹp tối thượng mà rải cúng dường nơi đó.

Lại nữa, này Tu-bồ-đề, giả sử có Thiện nam, Thiện nữ nào đọc tụng, thọ trì Kinh này, nhưng bị người khác khinh chê, ở đây, này Tu-bồ-đề, đối với vị ấy, do vì những tội nghiệp đã gây ra trong đời trước, đáng lẽ sẽ phải bị đọa vào ác đạo, nhưng trong đời này, do bị người khinh chê, nên tội nghiệp ấy liền được tiêu diệt, tương lai vị ấy sẽ đắc đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.

Này Tu-bồ-đề, Ta nhớ lại vào thời trước khi Phật Nhiên Đăng ra đời, vô lượng vô số kiếp về quá khứ, Ta đã gặp tám trăm bốn nghìn muôn ức na-do-tha các đức Phật, lúc ấy Ta đều hầu hạ, cúng dường và phụng sự hoàn hảo. Nhưng này Tu-bồ-đề, về đời mạt thế sau này, nếu có người nào có thể đọc tụng, thọ trì Kinh này, thời công đức của người ấy, nếu đem so sánh với công đức của Ta cúng dường các đức Phật thuở trước, công đức của Ta không sánh bằng một phần trăm, một phần nghìn, vạn, ức, cho đến tính đếm thí dụ đều chẳng bằng được.

Này Tu-bồ-đề, về đời mạt thế sau này, nếu có Thiện nam, Thiện nữ nào, thọ trì, đọc tụng, Kinh này, công đức của người này, nếu Ta nói đủ, có kẻ nghe được, tâm ắt cuồng loạn, và có thể nghi hoặc, không tin.

Này Tu-bồ-đề, phải biết rằng, vì nghĩa lý của Kinh này chẳng thể nghĩ bàn, nên quả báo cũng không thể nghĩ bàn!

HẾT PHẦN 1

Bấy giờ, Trưởng lão Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, nếu một Thiện nam, Thiện nữ nào phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, phải trụ tâm như thế nào, phải hàng phục tâm như thế nào?

Này Tu-bồ-đề, nếu Thiện nam, Thiện nữ nào phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, phải sanh khởi tâm như vầy: Ta phải hướng dẫn tất cả chúng sanh khiến cho đều được diệt độ, và khi tất cả chúng-sanh diệt độ vô lượng vô biên, mà thấy không có thật chúng-sanh nào diệt độ. Vì sao? Bởi vì, này Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát chấp thủ về ngã, nhân, chúng sanh và thọ giả, vị ấy chẳng phải là chơn Bồ-tát. Bởi vì, này Tu-bồ-đề, không có một thật Pháp gì là phát tâm Vô-thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Tu-bồ-đề, ngươi nghĩ thế nào? Như Lai, khi ở chỗ Phật Nhiên Đăng, Ngài có đắc Pháp gì mà nhờ đó thành tựu Vô thượng Chánh-đẳng Chánh giác chăng?

Bạch Thế Tôn, như chỗ con hiểu lời Thế Tôn dạy, vào thuở xưa, khi ở nơi Phật Nhiên Đăng, Thế Tôn đã không có đắc Pháp gì để nhờ đó được thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.

Này Tu-bồ-đề, Đúng thế! Đúng thế! Không có thật Pháp gì, mà nhờ đó, Như Lai đắc thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.

Này Tu-bồ-đề, nếu còn có Pháp nào để nhờ đó Như Lai được thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, thời Phật Nhiên Đăng đã chẳng thọ ký cho Ta rằng: “Người ở đời sau sẽ được thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.” Bởi vì không có thật pháp để thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, cho nên Phật Nhiên Đăng đã thọ ký cho Ta, mà nói lời này: “Người ở đời sau sẽ được thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.” Bởi vì “Như Lai” nghĩa là tánh như-như của các pháp. Nếu có người nói rằng: “Như Lai được thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác”, Ta bảo ngươi rằng, này Tu-bồ-đề, không có thật pháp để đắc thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác. Này Tu-bồ-đề, Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác mà Như Lai chứng được, Pháp ấy không thật, không hư, vì thế Như Lai nói, tất cả Pháp đều là Phật Pháp.

Này Tu-bồ-đề, tất cả Pháp mà Như Lai nói, đều chẳng phải thật Pháp, mà gọi là tất cả Pháp. Này Tu-bồ-đề, ví như thân người cao lớn.

Tu-bồ-đề bạch rằng: Bạch Thế Tôn, Đức Như Lai nói thân người cao lớn, chẳng phải thật thân cao lớn, mà nói là thân cao lớn.

Này Tu-bồ-đề, trong cùng một cách, Bồ-tát cũng như thế. Nếu Bồ-tát nói như vầy: “Ta sẽ diệt độ vô lượng chúng sanh”, thời vị đó không được gọi là chơn Bồ-tát. Vì sao? Này Tu-bồ-đề, bởi vì không có thật Pháp nào được gọi là Bồ-tát. Vì thế, Như Lai nói tất cả pháp, không ngã, không nhân, không chúng-sanh và không thọ giả.

Này Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát nói như thế này: “Ta phải trang nghiêm Phật độ,” thời vị ấy không phải là Bồ-tát. Vì sao? Vì Như Lai nói trang nghiêm Phật độ, chẳng phải thật trang nghiêm, mà nói là trang nghiêm.

Này Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát thông đạt giáo lý về tính không của Ngã và Pháp, thời Như Lai gọi vị ấy là chơn Bồ-tát.

Này Tu-bồ-đề, ngươi nghĩ thế nào, Như Lai có nhục nhãn chăng? Bạch Thế Tôn, đúng thế, đức Như Lai có nhục nhãn.

Này Tu-bồ-đề, Như Lai có thiên nhãn chăng? Bạch Thế Tôn, đúng thế, đức Như Lai có thiên nhãn.

Này Tu-bồ-đề, Như Lai có huệ nhãn chăng? Bạch Thế Tôn, đúng thế, đức Như Lai có huệ nhãn.

Này Tu-bồ-đề, Như Lai có pháp nhãn chăng? Bạch Thế Tôn, đúng thế, đức Như Lai có pháp nhãn.

Này Tu-bồ-đề, Như Lai có Phật nhãn chăng? Bạch Thế Tôn, đúng thế, đức Như Lai có Phật nhãn.

Này Tu-bồ-đề, bao nhiêu hạt cát trong sông Hằng, Như Lai có nói đó là hạt cát chăng? Bạch Thế Tôn, đúng thế, đức Như Lai nói đó là cát.

Này Tu-bồ-đề, ví như có bao nhiêu cát trong một sông Hằng, mỗi hạt cát lại là một sông Hằng nữa. Cõi Phật nhiều như tổng số cát của tất cả sông Hằng ấy, như thế, cõi Phật có nhiều chăng?

Bạch Thế Tôn, rất nhiều!

Phật dạy: Này Tu-bồ-đề, bao nhiêu chúng sanh trong bao nhiêu thế giới đó, có bao nhiêu thứ tâm niệm của tất cả chúng sanh trong ngần ấy cõi nước, Như Lai đều biết rõ. Vì sao? Vì Như Lai nói tất cả tâm đều là chẳng phải thật tâm, mà nói là tâm. Vì vậy, này Tu-bồ-đề, tâm quá khứ không tìm được, tâm hiện tại không tìm được, tâm vị lai không tìm được.

Này Tu-bồ-đề, ngươi nghĩ thế nào, nếu như có người đem bảy báu, đầy cả cõi tam thiên đại thiên thế giới để bố thí, do nhân duyên như thế, người ấy được phước đức có nhiều chăng?

Bạch Thế Tôn, người đó, do nhân duyên ấy, được phước đức rất nhiều.

Này Tu-bồ-đề, nếu là thật phước đức, thời đức Như Lai đã chẳng nói là phước đức nhiều. Do vì không thật phước đức, nên đức Như Lai nói là phước đức nhiều.

Này Tu-bồ-đề, ngươi nghĩ thế nào, có thể do sắc thân cụ túc, mà thấy được Như Lai chăng?

Bạch Thế Tôn, chẳng thể do sắc thân cụ túc mà thấy được Đức Như Lai. Vì sao? Vì đức Như Lai nói sắc thân cụ túc, chẳng phải thật sắc thân cụ túc, mà nói là sắc thân cụ túc.

Này Tu-bồ-đề, ngươi nghĩ thế nào, có thể dựa vào các tướng cụ túc mà thấy được Như Lai chăng?

Bạch Thế Tôn, chẳng thể do nơi các tướng cụ túc mà thấy được đức Như Lai. Vì sao? Vì đức Như Lai nói các tướng cụ túc, chẳng phải thật tướng cụ túc, mà nói là tướng cụ túc.

Này Tu-bồ-đề, chớ nói rằng Như Lai nghĩ thế này: “Ta có thuyết pháp.” Đừng nghĩ như thế. Vì sao? Vì nếu người nào nói rằng Như Lai có thuyết thật Pháp, thời kẻ ấy đã nói không đúng sự thật, kẻ ấy đã xuyên tạc Như Lai, và kẻ ấy không thể hiểu được nghĩa lý mà Như Lai thuyết giảng.

Này Tu-bồ-đề, Như Lai thuyết Pháp, không có thật Pháp để thuyết, mà nói là thuyết Pháp.

Bấy giờ, Trưởng lão Huệ Mạng Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, trong thời vị lai, sẽ có chúng sanh nào nghe Pháp này mà sanh lòng tin được chăng?

Phật dạy: Này Tu-bồ-đề, chúng sanh kia chẳng phải thật chúng sanh, cũng chẳng phải là phi chúng sanh. Này Tu-bồ-đề, những chúng sanh đó, Như Lai nói chẳng phải thật chúng sanh, mà nói là chúng sanh.

Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, đức Phật chứng Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác là không có chỗ sở đắc chăng?

Đúng thế! Đúng thế! Này Tu-bồ-đề, Ta ở nơi Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, cho đến không có một thật Pháp có thể chứng đắc, nên mới gọi là Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác. Tuy nhiên, này Tu-bồ-đề, Pháp đó phổ biến, bình đẳng, không có cao, thấp, nên gọi là Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác. Do vì không chấp ngã, không chấp nhơn, không chấp chúng-sanh và không chấp thọ-giả, mà tu tất cả pháp lành, liền được Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.

Này Tu-bồ-đề, cái gọi là Pháp lành, Như Lai nói chẳng phải thật pháp lành, mà nói là pháp lành. Này Tu-bồ-đề, ví như trong cõi tam-thiên, đại-thiên thế giới có bao nhiêu núi Tu Di, nếu có người đem bảy báu chất cao bằng những núi Tu Di kia, tất cả đều đem bố thí cúng dường; mặt khác, nếu có người đối với Kinh Bát-nhã Ba-la-mật này, dù chỉ một bài kệ bốn câu, mà có thể thọ trì, đọc tụng, giảng nói cho người khác nghe hiểu, thời phước đức của người trì Kinh hơn phước đức của người bố thí kia gấp trăm lần, nghìn lần, cho đến tính đếm thí dụ đều chẳng thể bằng được.

Này Tu-bồ-đề, chớ nên cho rằng Như Lai nghĩ như vầy: “Ta có hóa độ chúng sanh.” Này Tu-bồ-đề, ngươi đừng nghĩ như thế. Vì sao? Vì không có thật chúng-sanh nào mà đức Như Lai hóa độ. Nếu nói Như Lai có hóa độ chúng sanh, thời như vậy, Như Lai còn chấp ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả chăng?

Này Tu-bồ-đề, khi Như Lai nói về Ngã, đó chẳng phải thật Ngã, nhưng kẻ phàm phu lại chấp trước, cho là thật Ngã.

Này Tu-bồ-đề, phàm phu đó, Như Lai nói chẳng phải thật phàm phu, mà nói là phàm phu.

Này Tu-bồ-đề, ngươi nghĩ thế nào, có thể dựa vào ba mươi hai tướng mà nhận biết đó là Như Lai chăng?

Đúng thế! Đúng thế! Bạch Thế Tôn, dựa vào ba mươi hai tướng mà nhận biết là Như Lai.

Phật dạy: Này Tu-bồ-đề, nếu dựa vào ba mươi hai tướng mà nhận biết là Như-Lai, thời Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Như-Lai chăng?

Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn, như vậy, theo như con hiểu ý của đức Phật, thời chẳng phải dựa vào ba mươi hai tướng mà nhận biết là Như Lai.

Bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Nếu do sắc thấy Ta
Do âm thanh tìm Ta
Người ấy tu đạo tà
Chẳng thể thấy Như Lai.

Này Tu-bồ-đề, ngươi đừng nghĩ: “Như Lai không cần có tướng cụ túc mà đắc Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác”; nhưng ngươi cũng đừng nghĩ: “Như Lai do có tướng cụ túc mà được Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác”. Vì sao? Bởi vì, nếu ngươi nghĩ rằng: “Như-Lai không cần có tướng cụ túc mà đắc Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác” thời người mới phát tâm Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác sẽ chấp vô tướng, cho rằng các pháp đều đoạn diệt, trống rỗng, hư vô. Nhưng nếu ngươi suy nghĩ: “Như Lai do có tướng cụ túc mà được Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác” thời sẽ rơi vào chấp hữu tướng.

Này Tu-bồ-đề, người chân chánh phát tâm Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, đối với các pháp, không chấp đoạn diệt vô tướng, cũng không chấp tướng vô thường là thật tướng.

Này Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát đem bảy báu đầy cả những cõi nước bằng số cát sông Hằng để tu hạnh bố thí, nếu lại có người thấu rõ lý vô-ngã của tất cả pháp mà đặng thành nhẫn trí, vị Bồ-tát này được công đức lớn hơn vị Bồ-tát trước. Bởi vì sao? Vì này Tu-bồ-đề, công đức của các Bồ tát sở dĩ to lớn là vì Bồ-tát không chấp thủ phước đức.

Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn, tại sao Bồ-tát không chấp thủ phước đức?

Này Tu-bồ-đề, Bồ-tát làm tất cả mọi việc phước đức đều chẳng tham trước, vì thế nên nói là Bồ tát chẳng chấp thủ phước đức.

Này Tu-bồ-đề, nếu có người nói: “Như Lai có đến, có đi, có ngồi, có nằm”, thời người ấy nói không đúng như lý. Bởi vì sao? Vì Như Lai không từ nơi nào đến, cũng không đi về đâu. Không đến, không đi nên gọi là Như Lai.

Này Tu-bồ-đề, nếu có vị Thiện nam, Thiện nữ nào đem cõi tam thiên đại thiên thế giới nghiền nát ra thành vi trần. Ngươi nghĩ thế nào, số vi trần đó có nhiều chăng?

Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Nhưng nếu là thật vi trần, thời đức Phật chẳng nói là vi trần. Vì vậy, đức Phật nói vi trần, chẳng phải thật vi trần, mà nói là vi trần. Bạch Thế Tôn, như đức Thế Tôn nói cõi tam thiên đại thiên thế giới chẳng phải thật thế giới, mà nói là thế giới. Vì sao? Vì thế giới là sự hợp tướng. Đức Như Lai nói hợp tướng chẳng phải thật hợp tướng, mà nói là hợp tướng.

Này Tu-bồ-đề, hợp tướng đó, chẳng thể nói được, nhưng Như Lai vì kẻ phàm phu còn chấp trước mà nói là hợp tướng.

Này Tu-bồ-đề, nếu có người nói: “Như Lai có thuyết về ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến và thọ giả kiến.” Ngươi nghĩ thế nào, người ấy có nói đúng như lý chăng?

Bạch Thế Tôn, người ấy nói không đúng như lý. Vì sao? Vì Thế Tôn nói ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến và thọ giả kiến, chẳng phải thật ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến và thọ giả kiến, mà nói là ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến và thọ giả kiến.

Vì vậy, này Tu-bồ-đề, đối với tất cả pháp, người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác phải biết như thế, thấy như thế, tin hiểu như thế, chẳng sanh chấp pháp tướng.

Này Tu-bồ-đề, pháp tướng mà Như Lai nói, không phải thật pháp tướng, mà nói là pháp tướng.

Này Tu-bồ-đề, giả sử có người đem bảy báu đầy cả vô lượng vô số cõi nước để tu hạnh bố thí. Lại nếu có vị Thiện nam, Thiện nữ nào phát tâm Bồ-đề, thọ trì Kinh này, dù chỉ một bài kệ bốn câu, tự mình thọ trì, đọc tụng, lại giảng cho người khác tỏ ngộ, thời phước đức của người này hơn người trước. Giảng nói cho người khác nghe như thế nào? Đó là không chấp thủ các tướng, như-như chẳng động.  Bởi vì:

Tất cả những pháp hữu vi
Như mộng, huyễn, bọt, ảnh

Như sương cũng như điện
Nên quán chiếu như thế!

Đức Phật nói Kinh này xong, Trưởng lão Tu-bồ-đề cùng với các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Người, A-tu-la trong thế gian, nghe lời Phật dạy, tất cả đều rất vui mừng, tin nhận, phụng hành.

(HẾT KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT)

KINH A DI ĐÀ

Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Cưu-ma-la-thập
Việt dịch: Thích Thiện Thái

Như vậy Ta nghe.

Một thời Phật trú ở thành Xá-vệ, tại Tinh xá Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ Đà. Cùng với Phật có hàng Thánh chúng Tỳ-kheo một nghìn hai trăm năm mươi vị, là những bậc đại A-la-hán danh tiếng. Trưởng lão Xá-lợi-phất, Ma-ha Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-diếp, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ma-ha Câu-hy-la, Ly-bà-đa, Châu-lợi-Bàn-đà-già, Nan-đà, A-nan-đà, La-hầu-la, Kiều-phạm-ba-đề, Tân đầu-lư-Phả-la-đọa, Ca-lưu-đà-di, Ma-ha Kiếp-tân-na, Bạc-câu-la, A-nâu-lâu-đà, … đều là những vị đại đệ tử Phật. Hàng Bồ-tát và đại Bồ-tát gồm có các ngài: Văn-thù-sư-lợi Pháp-Vương-tử, A-dật-đa Bồ-tát, Càn-đà-ha-đề Bồ-tát, Thường-tinh-tấn Bồ-tát… Hàng chư thiên, có vua trời Thích-đề-hoàn-nhơn cùng với vô lượng Thiên chúng vân tập tham dự. Ο

Bấy giờ Phật bảo Trưởng lão Xá-lợi-phất rằng, từ đây hướng về phương Tây trải qua mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, ở thế giới ấy có đức Phật hiệu là A Di Đà hiện đang thuyết pháp.

Này Xá-lợi-phất, vì sao thế giới đó tên là Cực Lạc? Này Xá-lợi-phất, bởi vì chúng sanh ở thế giới đó không có khổ não, chỉ có an lạc, do vậy cho nên gọi là Cực Lạc. Lại nữa, này Xá-lợi-phất, thế giới Cực Lạc, nơi nơi đều có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới châu, bảy lớp hàng cây, tất cả đều bằng bốn loại chất báu, bao quanh giáp vòng, vì thế cho nên gọi là Cực Lạc.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất, trong cõi Cực Lạc có ao bảy báu, trong ao tràn đầy nước tám công đức. Đáy ao đều là vàng ròng làm cát trải trên mặt đất. Thềm ao bốn bề đều được làm thành từ các chất báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Trên ao lại có lầu gác tốt đẹp tráng lệ, cũng đều nghiêm sức bằng các chất báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. Hoa sen trong ao lớn như bánh xe, sen xanh sáng xanh, sen vàng sáng vàng, sen đỏ sáng đỏ, sen trắng sáng trắng, mùi hương thanh khiết vi diệu. Này Xá-lợi-phất, thế giới Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như vậy.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất, ở cõi Phật đó, thường có nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời, trời mưa hoa mạn-đà-la. Chúng sanh cõi ấy, vào lúc sáng sớm, lấy đãy đựng hoa, đựng những hoa báu, đem đi cúng dường mười muôn ức Phật, đến giờ thọ trai, trở về bổn quốc, thọ thực kinh hành. Này Xá-lợi-phất, thế giới Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như vậy.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất, ở cõi Phật đó có những loài chim vô cùng báu diệu, mầu sắc pha trộn, xinh đẹp lạ thường: Bạch hạc, Khổng tước, Anh võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cộng-mạng. Những loài chim ấy ngày đêm sáu thời cất tiếng hòa nhã. Tiếng chim diễn nói vi diệu pháp âm Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần và các Pháp khác. Chúng sanh nghe Pháp thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Này Xá-lợi-phất, ngươi chớ nghĩ rằng, những loài chim ấy, đã được sanh ra là do tội báo trong loài súc sanh. Vì sao như vậy? Vì ở thế giới trang nghiêm Cực Lạc không bao giờ có ba nẻo ác đạo: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Này Xá-Lợi-Phất, ở cõi Cực Lạc, ngay cả tên gọi về ba ác đạo cũng còn không có, còn nói chi đến cảnh giới ác đạo. Những loài chim ấy đều do thần lực Phật A Di Đà muốn cho Pháp âm tuyên lưu khắp chốn mà biến hiện ra. Này Xá-lợi-phất, thế giới Cực Lạc, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và mành lưới báu, vang tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn các loại kỹ nhạc cùng chung hòa điệu. Ai nghe tiếng ấy tự nhiên khởi tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Này Xá-lợi-phất, thế giới Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như vậy.

Này Xá-lợi-phất, ngươi nghĩ thế nào, vì sao đức Phật đó có danh hiệu là A Di Đà? Này Xá-lợi-phất, vì đức Phật đó, quang minh vô lượng, soi sáng mười phương, không có vật gì có thể chướng ngại, nên có danh hiệu là A Di Đà. Lại nữa, này Xá-lợi-phất, vì đức Phật đó cùng với dân chúng của cõi Cực Lạc, thọ mạng dài lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên có danh hiệu là A Di Đà. Này Xá-lợi-phất, Phật A Di Đà thành Phật đến nay, đã hơn mười kiếp.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất, Phật A Di Đà có hàng đệ tử Thánh chúng Thanh Văn bậc A-la-hán nhiều đến vô lượng, chẳng thể tính đếm, và hàng Bồ-tát cũng đông như vậy. Này Xá-lợi-phất, thế giới Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như vậy.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất, những chúng sanh nào đã vãng sanh về thế giới Cực Lạc đều được thành tựu địa vị kiên cố, không còn thoái chuyển, trong đó phần lớn trở thành Bồ-tát nhất-sanh-bổ-xứ, số đó rất đông, vô lượng vô biên, không thể tính đếm mà biết cùng tận.

Này Xá-lợi-phất, nếu có chúng sanh nghe được Kinh này, hãy nên phát nguyện sanh về Cực Lạc. Vì sao như vậy? Vì nếu sanh về thế giới Cực Lạc sẽ được cùng với các bậc cao đức có nhiều phước lành sống chung một chỗ.

Này Xá-lợi-phất, không thể chỉ do chút ít thiện căn, phước đức nhơn duyên mà được sanh về thế giới Cực Lạc. Này Xá-lợi-phất, nếu có Thiện nam hoặc Thiện nữ nào được nghe danh hiệu Phật A Di Đà, chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, an trú nhất tâm, thì lúc mạng chung, Phật A Di Đà và hàng Thánh Chúng hiện thân trước mặt. Người đó lúc chết, tâm không điên đảo, liền được vãng sanh thế giới Cực Lạc ở trong nguyện lực Phật A Di Đà. Này Xá-lợi-phất, Ta thấy có sự lợi ích như vậy, nên nói lời này. Nếu có người nào nghe được Kinh này, hãy nên phát nguyện sanh về thế giới trang nghiêm Cực Lạc. Này Xá-lợi-phất, Như Lai hôm nay khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà, thì tất cả Phật trong khắp mười phương cũng đồng như vậy. Ο

Thế giới phương Đông có A-Súc-Bệ-Phật, Tu-Di-Tướng Phật, Đại-Tu-Di Phật, Tu-Di-Quang Phật, Diệu-Âm Phật… Như vậy hết thảy Hằng sa chư Phật ở tại vô lượng quốc độ phương Đông, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp tam thiên đại thiên thế giới, đều diễn pháp âm lời khuyên chân thật: Tất cả chúng sanh hãy nên tin nhận Kinh tất cả chư Phật hộ niệm và xưng tán công đức không thể nghĩ bàn.

Này Xá-lợi-phất, thế giới phương Nam có Nhật-Nguyệt-Đăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tu-Di-Đăng Phật, Vô-Lượng-Tinh-Tấn Phật… Như vậy hết thảy Hằng sa chư Phật ở tại vô lượng quốc độ phương Nam, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp tam thiên đại thiên thế giới, đều diễn pháp âm lời khuyên chân thật: Tất cả chúng sanh hãy nên tin nhận Kinh tất cả chư Phật hộ niệm và xưng tán công đức không thể nghĩ bàn.

Này Xá-lợi-phất, thế giới phương Tây có Vô Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, Đại-Quang Phật, Đại-Minh Phật, Bảo-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật… Như vậy hết thảy Hằng sa chư Phật ở tại vô lượng quốc độ phương Tây, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp tam thiên đại thiên thế giới, đều diễn pháp âm lời khuyên chân thật: Tất cả chúng sanh hãy nên tin nhận Kinh tất cả chư Phật hộ niệm và xưng tán công đức không thể nghĩ bàn. Ο

Này Xá-lợi-phất, thế giới phương Bắc có Diệm-Kiên Phật, Tối-Thắng-Âm Phật, Nan-Trở Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng-Minh Phật… Như vậy hết thảy Hằng sa chư Phật ở tại vô lượng quốc độ phương Bắc, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp tam thiên đại thiên thế giới, đều diễn pháp âm lời khuyên chân thật: Tất cả chúng sanh hãy nên tin nhận Kinh tất cả chư Phật hộ niệm và xưng tán công đức không thể nghĩ bàn. Ο

Này Xá-lợi-phất, thế giới phương Hạ có Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, Đạt-Ma Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật… Như vậy hết thảy Hằng sa chư Phật ở tại vô lượng quốc độ phương Hạ, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp tam thiên đại thiên thế giới, đều diễn pháp âm lời khuyên chân thật: Tất cả chúng sanh hãy nên tin nhận Kinh tất cả chư Phật hộ niệm và xưng tán công đức không thể nghĩ bàn. Ο

Này Xá-lợi-phất, thế giới phương Thượng có Phạm-Âm Phật, Tú-Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc Bửu-Hoa-Nghiêm-Thân Phật, Ta-La-Thọ-Vương Phật, Bửu-Hoa-Đức Phật, Kiến-Nhất-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật… Như vậy hết thảy Hằng sa chư Phật ở tại vô lượng quốc độ phương Thượng, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp tam thiên đại thiên thế giới, đều diễn pháp âm lời khuyên chân thật: Tất cả chúng sanh hãy nên tin nhận Kinh tất cả chư Phật hộ niệm và xưng tán công đức không thể nghĩ bàn. Ο

Này Xá-lợi-phất, ngươi nghĩ thế nào, vì sao Kinh này có tên gọi là “Kinh tất cả chư Phật hộ niệm”? Này Xá-lợi-phất, đó là bởi vì nếu có Thiện nam hay Thiện nữ nào nghe được Kinh này tin nhận thọ trì, và nghe danh hiệu của các đức Phật, thời những Thiện nam hay Thiện nữ ấy đều được tất cả chư Phật hộ niệm, và những vị ấy sẽ không thoái chuyển đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Xá-lợi-phất, do vậy các người hãy nên tin nhận lời nói của Ta và của chư Phật. Này Xá-lợi-phất, nếu có những người hoặc đã phát nguyện, hoặc đang phát nguyện, hoặc sẽ phát nguyện sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà, thời những người ấy đều không thoái chuyển đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chính những người ấy thảy đều thành tựu, hoặc đã sanh về, hoặc đang sanh về, hoặc sẽ sanh về thế giới Cực Lạc. Này Xá-lợi-phất, do vậy, các Thiện nam tử và Thiện nữ nhân, nếu có lòng tin, hãy nên phát nguyện sanh về thế giới trang nghiêm Cực Lạc.

Này Xá-lợi-phất, Như Lai hôm nay khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của các đức Phật, thì chư Phật cũng khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của Như Lai mà nói lời rằng: “Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni Thế Tôn có thể làm nên việc làm khó khăn và rất hi hữu. Đức Thế Tôn ấy có thể ở ngay trong cõi Ta Bà đời ác năm trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược, mà vẫn chứng được ngôi Vô Thượng Giác, lại vì chúng sanh diễn nói diệu pháp mà cả thế gian rất khó tin nhận”. Này Xá-lợi-phất, phải nên biết rằng, Như Lai ở trong đời ác năm trược, đã làm nên được việc rất khó làm: Đó là chứng thành Vô thượng Chánh giác, lại vì tất cả chúng sanh thế gian mà nói diệu Pháp khó tin nhận này. Đây là việc rất khó!

Đức Phật nói Kinh này xong, Trưởng lão Xá-lợi-phất cùng chư vị Tỳ-kheo, và tất cả thế gian: Trời, Người, A-tu-la nghe lời Phật dạy, hoan hỷ tín thọ, đảnh lễ lui ra. ǁΟǁ

(HẾT KINH A DI ĐÀ)

 

KINH DI GIÁO

Việt dịch: Thích Thiện Thái

       Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lần đầu tiên chuyển Pháp luân tại Vườn Nai độ A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ Tu-bạt-đà-la. Những người có duyên đáng độ, Phật đã độ xong, hôm nay ở giữa hai cây Sa-la, Phật sắp nhập Niết-bàn. Bấy giờ là lúc nửa đêm, hoàn toàn yên lặng, không một tiếng động, Phật vì hàng đệ tử mà lược thuyết những chỗ cốt yếu trong giáo pháp.

Đức Phật dạy rằng:

Này các Tỳ-kheo, sau khi Như Lai nhập diệt, hãy tôn trọng, cung kính đối với giới luật. Người có giới cũng như ở chỗ tối tăm mà được ánh sáng; cũng như người nghèo khổ mà được của báu. Cho nên phải biết rằng giới luật là thọ mạng của chư Phật, giới luật là thầy của các ngươi. Vì thế, giới luật trụ thế cũng như Như Lai còn trụ thế, không có khác biệt.

Người giữ giới trong sạch không được làm việc buôn bán đổi chác; không được kinh doanh tài bảo, mua giữ ruộng đất, nhà cửa; nuôi dưỡng nô tỳ, nuôi súc vật để cầu lợi. Tất cả những loại giống cây trồng cùng mọi thứ của cải quý báu đều phải nên xa lánh, như tránh hầm lửa vậy. Những việc như đốn chặt cây cỏ, cày xới đất đai, bào chế thuốc thang, xem tướng lành dữ, xem thiên văn, địa lý, để suy lường vận mệnh nên hư, hoặc xem ngày giờ tốt xấu, v.v.., đều chẳng nên làm.

Hãy dè dặt giữ mình có tiết độ, ăn uống đúng thời, nuôi sống mình bằng chánh-mạng trong sạch. Không được tham dự những công việc của người đời, như làm người đưa tin, làm sứ giả, v.v… Những việc như luyện chú thuật, luyện thuốc tiên, hoặc giao hảo với kẻ quyền qúy, và thân thiết với họ rồi hèn hạ ngạo mạn, tất cả đều không nên làm.

Phải luôn chánh niệm, giữ tâm ngay thẳng cầu thoát sanh tử. Không được che giấu lỗi lầm, hoặc làm những việc dị thường để mê hoặc người đời. Đối với bốn món cúng dường phải nên sử dụng có chừng mực và biết đủ; nếu có dư, liền phải thí xả, chẳng nên tích trữ.

Đó là nói sơ qua hình tướng của việc giữ giới. Giới luật chính là thuận theo gốc của giải thoát, cho nên gọi là “tùy thuận giải thoát”. Nhờ nương theo giới luật mà có thể đạt đến thiền định và trí tuệ diệt khổ. Vì vậy mà Tỳ-kheo phải giữ giới trong sạch, không để có sự hủy phạm, thiếu sót. Nếu ai giữ giới trong sạch, ắt được các pháp lành. Nếu không giữ giới trong sạch, thì công đức lành chẳng thể sanh ra. Nên phải biết rằng, giới luật là chỗ an trụ trước tiên của đời sống giải thoát.

Này các Tỳ-kheo, đã có thể an trụ nơi giới rồi, nên phòng hộ chế ngự năm căn, chớ để năm căn phóng dật, chạy theo năm dục. Ví như người chăn bò, phải cầm gậy canh giữ, chẳng để cho đàn bò tự do chạy bậy, xâm phạm ruộng lúa của người.

Nếu buông thả năm căn, chúng sẽ chạy theo năm dục trưởng dưỡng không có giới hạn, và không thể chế ngự được. Chẳng khác nào con ngựa chứng mà không có dây cương kiềm chế, nó sẽ lôi người xuống hầm hố. Giả sử như bị giặc cướp làm hại, chỉ khổ một đời này thôi, còn bị giặc năm căn làm hại, thì khổ nạn kéo dài đến vô lượng kiếp, thiệt hại nặng nề, vì thế không thể không thận trọng. Vậy nên người có trí phải biết chế ngự các căn như phòng giữ giặc cướp, không để buông thả. Nếu buông thả năm căn, chẳng bao lâu chúng sẽ hủy diệt tất cả mọi pháp lành.

Này các Tỳ-kheo, tâm là chủ của năm căn. Vậy nên các ngươi phải khéo chế ngự tâm. Tâm là chủ tạo tác. Tâm rất đáng sợ! Tâm đáng sợ hơn cả rắn độc, thú dữ, kẻ giặc thù và nạn lửa lớn. Ta nói những thí dụ như thế cũng còn chưa đủ. Sự nguy hiểm của sự buông thả tâm cũng giống như người tay cầm bát mật đầy, đi lại nhanh nhẹn, mắt chỉ nhìn vào bát mật mà chẳng thấy cái hố sâu dưới chân; lại như con voi điên không có móc sắt để kiềm giữ chúng lại; hoặc như con vượn được lên cây, mặc tình nhảy nhót, khó bề ngăn cấm, chế ngự. Phải mau mau kiềm chế tâm mình, chớ để phóng dật. Nếu buông thả tâm, tất cả việc lành sẽ bị hủy hoại. Chế ngự được tâm rồi, không việc gì không xong. Vậy nên chư Tỳ-kheo phải tinh tấn chế ngự tâm.

Này các Tỳ-kheo, khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh khô gầy, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, thức ăn đưa vào thân thể chỉ có mục đích để trừ khỏi đói khát mà thôi.

Như con ong hút mật, chỉ lấy nhụy hoa mà chẳng làm tổn hại hương sắc. Tỳ-kheo cũng vậy, nhận sự cúng dường của tín thí chỉ đủ trừ đói khát, chẳng được tham cầu nhiều, gây tổn hại đến lòng lành của người. Hãy như kẻ khôn ngoan biết lượng sức con bò kéo, chẳng ép làm việc quá nặng khiến chúng phải kiệt sức.

Này các Tỳ-kheo, trọn ngày nên siêng năng tu tập thiện pháp, chẳng phí thời gian. Ban đêm, cũng chẳng nên bỏ mất, lúc đầu hôm và lúc gần sáng lấy việc thiền định để tiến tu đạo nghiệp. Còn lúc nửa đêm, lấy việc tụng kinh để trưởng dưỡng tri kiến. Đừng để việc ngủ mê làm cho một đời buông trôi uổng phí không được gì cả. Hãy thường nhớ đến ngọn lửa vô thường luôn thiêu đốt thế gian mà sớm lo cầu độ thoát. Giặc phiền não thường luôn rình rập hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn giải đãi ham ngủ mà chẳng tự thức tỉnh? Phiền não đang ngủ trong tâm, cũng như con rắn độc đang ngủ trong nhà. Hãy dùng cái móc sắt trì giới mà sớm trừ bỏ đi. Con rắn độc ấy trừ được rồi, mới có thể ngủ yên được. Chưa trừ được rắn ấy mà vẫn ngủ yên thì thật là không biết tự hổ thẹn.

Hãy lấy sự tự hổ thẹn làm trang phục. Hổ thẹn là món trang sức bậc nhất cho người tu hành. Hổ thẹn giống như cái móc sắc, có thể giúp chế ngự được việc làm sai trái. Thế nên Tỳ-kheo thường luôn phải biết tự hổ thẹn với những gì sai trái, dù là lỗi nhỏ nhặt, không lúc nào lơ đễnh. Nếu lìa khỏi sự hổ thẹn, ắt các bất thiện pháp sẽ sanh khởi, sẽ mất hết các công đức. Người biết xấu hổ mới có thể tránh được lỗi lầm và tiến bộ trong pháp lành. Kẻ không biết xấu hổ, việc ác nào cũng làm, chẳng khác gì loài cầm thú.

Này các Tỳ-kheo, nếu có người đến cắt xẻo thân thể này ra từng mảnh, cũng phải tự nhiếp tâm không nên nóng giận; hãy phòng hộ nơi miệng, chớ nói lời ác độc. Nếu buông thả tâm nóng giận là tự mình làm hại đạo tâm, mất hết công đức.

Nhẫn nhục là đức tính vượt hơn cả trì giới khổ hạnh. Người có thể nhẫn nhục mới đáng gọi là bậc đại nhân có sức mạnh. Đối với lời mắng chửi độc ác, hãy xem như uống nước cam lộ. Người không có đức nhẫn nhục thì chẳng thể gọi là bậc nhập đạo có trí. Tại sao vậy? Cái hại của sự nóng giận có tác dụng phá hoại các công đức, làm ngăn đạo nghiệp, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.

Này các Tỳ-kheo, nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ và dập tắt, không để cho sinh khởi. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận. Người thế tục thọ hưởng dục lạc, chẳng phải người hành đạo, họ không có cách tự chế, do vậy mà có nóng giận; còn như người xuất gia hành đạo, đã quyết tâm từ bỏ vô minh chấp ngã, sao còn ôm giữ sự nóng giận? Như giữa trời xanh trong mát, không có mây mù, sao lại có sấm sét xảy ra? Nóng giận là cấu uế mà người xuất gia cần phải đoạn trừ.

Này các Tỳ-kheo, khi tự xoa đầu nhớ rằng đã xả bỏ những món trang sức đẹp, mặc áo hoại sắc, ôm giữ ứng khí lấy việc khất thực mà nuôi sống. Tự thấy như vậy, nếu khởi tâm kiêu mạn thì hãy mau trừ bỏ đi. Người phàm phu còn chẳng nên kiêu mạn, huống chi là người xuất gia nhập đạo vốn đã vì muốn được giải thoát sanh tử, tự hạ mình đi khất thực mà còn kiêu mạn hay sao?

Này các Tỳ-kheo, tâm siểm khúc cũng là tâm cấu uế. Vì vậy nên cần phải giữ lòng chơn chất, ngay thẳng từ bỏ tâm siểm khúc. Tâm siểm khúc là sự lừa dối, quanh co với đời, đó là pháp bất thiện cần trừ bỏ. Người nhập đạo không có tâm siểm khúc. Các ngươi nên giữ lòng đoan chánh, lấy sự chơn chất ngay thẳng làm gốc.

Này các Tỳ-kheo, nên biết rằng người ham muốn nhiều nên khổ não cũng nhiều. Người ít ham muốn thì không bị ham muốn trói buộc sai khiến, nên không bị ham muốn làm hại. Hạnh ít ham muốn này, rất nên tu tập. Người ít ham muốn thì không có tâm lừa dối quanh co để cầu lợi cho mình, lại cũng không bị các phiền não sai khiến. Người thực hành hạnh ít ham muốn, thì lòng được thanh thản, không chướng ngại, không lo sợ chi cả; cho dù gặp việc thế nào cũng được tự tại an ổn. Giữ tâm ít ham muốn, ắt được Niết-bàn.

Này các Tỳ-kheo, nếu muốn thoát khỏi mọi khổ não, nên quán xét việc biết đủ. Biết đủ chính là chỗ giàu có, an lạc. Người biết đủ dù nằm trên mặt đất, vẫn thấy yên vui. Người không biết đủ, dù ở trên cảnh trời cũng không thỏa ý. Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo; người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kẻ không biết đủ thường bị năm dục trói buộc dắt dẫn đi vào ác đạo, thế nên người có trí thấy như vậy mà lấy làm thương xót.

Này các Tỳ-kheo, muốn cầu tịch tĩnh, vô vi an lạc, hãy nên thực hành viễn ly, sống độc cư ở nơi thanh vắng, lìa bỏ chỗ tụ họp huyên náo. Người ở nơi yên tĩnh, vua trời Đế-thích và chư thiên đều kính trọng. Vì vậy, chúng hội của mình, chúng hội của người khác đều nên lìa bỏ, đến ở một mình nơi chỗ thanh vắng, để thiền định mà diệt tận gốc khổ. Nếu ưa thích nơi chúng hội, tất phải chịu mọi phiền phức khổ não. Ví như cây lớn mà có nhiều chim chóc tụ họp, tất không khỏi mối họa cành nhánh khô gãy. Bị vướng buộc vào cảnh thế tục, tất phải chìm đắm trong phiền nhiễu khổ lụy, như con voi già sa lầy, chẳng thể tự ra khỏi được.

Này các Tỳ-kheo, nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc gì là không thành tựu. Bởi vậy, các ngươi nên chuyên cần tinh tấn. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn thủng được hòn đá to lớn. Còn nếu người tu với tâm giải đãi, công phu biếng nhác, thì cũng như người dùi cây lấy lửa, chưa nóng đã vội ngưng nghỉ, dù người ấy muốn được lửa cũng khó mà được.

Này các Tỳ-kheo, cầu được bậc thiện tri thức, cầu được người khéo phù trợ, cũng không bằng giữ tâm chánh niệm tỉnh giác. Nếu người luôn sống trong chánh niệm tỉnh giác, ác ma, giặc phiền não chẳng thể xâm nhập được. Vậy nên các ngươi phải thường thâu nhiếp chánh niệm tỉnh giác. Nếu để mất chánh niệm thì ác ma phiền não sẽ có cơ hội đối với các ngươi. Ta nói người ấy không thể thoát khỏi đau khổ. Nếu như người có niệm lực mạnh mẽ, bền bỉ, thì dù vào giữa đám giặc năm dục cũng chẳng bị hại; cũng như người mặc áo giáp kiên cố ra trận thì không bị thương tổn.

Này các Tỳ-kheo, nếu người nhiếp tâm thì tâm được định. Nhờ tâm được định, có thể thấu triệt thật tướng các pháp sanh diệt ở thế gian. Vậy nên các ngươi thường phải tinh tấn tu tập thiền định. Tâm được định thì không loạn. Tâm có định rồi mới mong đạt đến tuệ giác giải thoát. Như người muốn giữ nước, phải khéo đắp bờ. Người tu cũng thế, vì muốn giữ nước trí huệ, nên khéo tu thiền định, chẳng để cho trí tuệ chảy mất.

Này các Tỳ-kheo, người có trí thì thường tự xét mình, chẳng để có sai sót; không tham đắm, không vướng mắc bất cứ một vật gì ở trên đời. Như vậy ở trong giáo pháp của Ta, người ấy có thể thành tựu mục đích phạm hạnh. Nếu chẳng được vậy, thì chẳng phải người tu, cũng chẳng phải người thế tục, chẳng có tên gì để gọi.

Trí huệ thật là chiếc thuyền vững chắc đưa người vượt qua biển khổ sanh tử; lại như ngọn đèn soi sáng vô minh; như món thuốc hay trị lành bệnh tật; như cái rìu sắc bén đốn ngã cây phiền não. Vậy nên các ngươi phải lấy các môn trí huệ là nghe biết, tư duy, tu tập mà tự trau dồi để thành tựu tuệ giác cao thượng. Nếu người được sự chiếu sáng của trí huệ, thì dù chỉ có nhục nhãn, nhưng chính thật là người thấy rõ cùng tận thật tướng thế gian.

Này các Tỳ-kheo, nói năng phải như Pháp. Nếu nói chỉ để vui đùa thì chỉ khiến tâm tán loạn và mất thời gian vô ích. Vì thế mà Tỳ-kheo phải mau mau lìa bỏ việc loạn tâm nói đùa, nói lời vô ích. Nếu các ngươi muốn được niềm vui tịch diệt, thì nên khéo dứt trừ mối hại của việc nói đùa, nói lời vô ích.

Này các Tỳ-kheo, đối với các công đức vô lậu Giới Định Tuệ thường nên nỗ lực tu tập, phải từ bỏ sự phóng dật như tránh xa giặc thù. Những chỗ lợi ích cốt yếu mà Như Lai đã thuyết đều có thể lấy làm pháp nương tựa, các ngươi phải nên siêng năng thực hành. Như khi ở chốn núi rừng, hoặc chỗ đầm lầy vắng vẻ, hoặc dưới gốc cây, hoặc ở trong nhà trống, các ngươi đều phải luôn nghĩ nhớ đến các pháp đã thọ học, đừng để quên mất, thường tự tinh tấn tu tập. Chớ để uổng phí cả đời mà sau này phải hối tiếc.

Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải là lỗi nơi thầy thuốc. Ta cũng như người khéo chỉ đường, chỉ dẫn con đường tốt cho mọi người, người nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải là lỗi của người chỉ đường.

Này các Tỳ-kheo, đối với Bốn Thánh Đế, các ngươi còn có điều gì cần hỏi chăng? Nếu các ngươi còn có chỗ nghi ngờ đối với Bốn Thánh Đế, thì hãy mau hỏi, đừng ôm lòng nghi mà chẳng cầu được giải rõ. Đức Thế Tôn nói đến ba lần như vậy, nhưng trong đại chúng lúc ấy im lặng, không ai hỏi cả. Vì sao vậy? Vì trong đại chúng, không có ai còn nghi ngờ đối với Bốn Thánh Đế mà đức Thế Tôn đã khéo giảng dạy.

Bấy giờ, Tôn giả A-nậu-lâu-đà quán biết tâm ý của cả đại chúng, liền bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Mặt trăng có thể làm cho nóng lên, mặt trời có thể lạnh đi, nhưng Phật thuyết Pháp Tứ Đế, không thể có giáo pháp nào chân chánh hơn. Phật thuyết Khổ Đế, quả thật là khổ, không thể nói thành vui. Phật nói Tập Đế là nhân của khổ, thật là không còn có nhân nào khác nữa. Phật nói Diệt Đế là sự diệt tận khổ. Nếu khổ đã diệt, tức là nhân đã diệt, và vì nhân đã diệt nên quả phải diệt, đây chính là Niết-bàn an lạc tối thượng. Phật nói Đạo Đế là đạo diệt khổ, thật là đạo chân chánh, không còn có đạo nào chân chánh hơn được. Bạch Thế Tôn! Chư Tỳ-kheo nay đối với Pháp Tứ Đế đã tin chắc không còn có lòng nghi. Khi Tôn giả A-nậu-lâu-đà nói ra lời ấy, quả thật trong chúng, ai nấy đều đã thấu triệt và giác ngộ Bốn Thánh Đế.

Bấy giờ, trong đại chúng, những người chưa đắc quả A-la-hán, thấy Phật nhập diệt, sanh lòng xúc động khóc than: “Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm!” Tuy nhiên, đối với những người có duyên lành, vừa mới vào cửa Pháp, dù chỉ một lần được nghe lời Phật giảng dạy, cũng đều được độ thoát. Như người đi trong đêm tối vừa thấy có tia chớp sáng liền thấy đường đi. Còn những người đã đắc quả A-la-hán, đã vượt qua biển khổ, những vị này an trú chánh niệm tỉnh giác, nhẫn nại, suy tư: “Các hành là vô thường, làm sao tránh khỏi sự kiện ấy?”

Đức Thế Tôn muốn cho đại chúng đều được tâm kiên cố, nên khởi tâm đại bi, lại vì đại chúng mà nói lời này:

Này các Tỳ-kheo! Đừng ôm lòng bi thương áo não. Bởi lẽ dù Ta có trụ ở đời một kiếp hay hơn một kiếp đi nữa, cuối cùng cũng phải diệt độ. Có hợp mà không tan là điều không thể có được. Nay, chỗ lợi mình, lợi người, trong pháp của Ta đều đã trọn đủ. Nếu Ta ở đời lâu nữa cũng không có ích gì. Trong các chúng Trời, Người, những ai có thể cứu độ, đều đã được cứu độ. Còn những ai chưa thể cứu độ, Ta cũng đã tạo nhân duyên cứu độ về sau.

Từ nay về sau, đệ tử của Ta y cứ theo Pháp và Luật này mà thực hành, như vậy là pháp thân của Như Lai sẽ thường trụ lâu dài ở thế gian. Nên biết rằng các pháp hữu vi đều vô thường, mọi việc trong đời đều sanh diệt biến chuyển, có tụ hội ắt có tan rã. Đừng nên ôm lòng sầu khổ, bản chất mọi hình tướng ở đời đều là vô thường. Hãy siêng năng tinh tấn, sớm cầu giải thoát, đem ánh sáng trí huệ mà diệt trừ vô minh. Cuộc đời thật là mong manh. Nay Ta nhập diệt, như trừ xong bệnh dữ. Cái thân mục nát mong manh giả tạm này luôn là nhân duyên gây nên sầu bi khổ ưu não, bậc Trí nào khi đã dứt trừ được nó mà không vui?

Này các Tỳ-kheo, thường nên hết lòng chuyên tâm cầu học đạo giải thoát. Hết thảy các pháp ở thế gian đều là vô thường, suy hoại, nguy hiểm và bất ổn. Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi. Thôi Ta dừng lại ở đây. Như Lai không còn gì để nói nữa. Thời giờ sắp qua, Như Lai sắp diệt độ. Đây là những lời dạy cuối cùng của Như Lai.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

(HẾT KINH DI GIÁO)

PHẦN HỒI HƯỚNG

TỰ QUY Y

Tự quy y Phật, nguyện cho chúng sanh,

Kiên cố Bồ đề, phát tâm vô thượng.

Tự quy y Pháp, nguyện cho chúng sanh,

Thâm nhập Kinh tạng, trí tuệ như biển.

Tự quy y Tăng, nguyện cho chúng sanh,

Tịnh hòa Đại chúng, tất cả không ngại.

HỒI HƯỚNG

Nguyện đem công đức này,

Hướng về khắp tất cả.

Đệ tử và chúng sanh,

Đều trọn thành Phật đạo.

CHÂN THÀNH TRI ÂN QUÝ THIỆN NHÂN HỘ PHÁP ĐÃ PHÁT TÂM ẤN TỐNG KINH NÀY.

Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát.

1.THÍCH THIỆN THÁI, Ph.D.

Nghiên cứu, biên tập, hiệu đính và ấn hành.

[email protected]

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *