KHAI KINH
NGUYỆN HƯƠNG
Giới hương công đức thanh lương
Định hương thiền tịnh tâm thường chuyên tu
Tuệ hương tinh tấn công phu
Giải thoát hương đạo nhiệm mầu chánh chân
Giải thoát tri kiến vô sanh
Năm phần hương nguyện kính dâng cúng dường
Oai linh Tam Bảo mười phương
Đức lành vô thượng chơn thường Thánh ân.
Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát.
LỄ PHẬT BẢO
Cội bồ đề trang nghiêm thiền tịnh
Thắng thiên ma vạn chướng trùng trùng
Con xin lạy đấng Ðại Hùng
Rọi vô biên trí tận cùng thế gian.
Từ quá khứ vô vàn Phật hiện
Ở tương lai vô lượng Phật thành
Hiện tiền chư Phật độ sanh
Con xin kính lễ tâm minh nguyện cầu.
Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng
Chánh Biến Tri, Minh Hạnh đủ đầy
Ðức ân Thiện Thệ cao dày
Bậc Thế Gian Giải chỉ bày lý chân.
Vô Thượng Sĩ pháp âm tịnh diệu
Bậc Trượng Phu Ðiều Ngự độ sanh
Thiên Nhân Sư đấng Cha Lành
Phật đà toàn giác Thế Tôn trong đời.
Phật là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Phật Bảo từ ân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên.
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Phật bảo đức lành từ dung. (lạy)
LỄ PHÁP BẢO
Bát Thánh đạo con đường chánh giác
Ðưa chúng sanh vượt thoát trầm luân
Chân truyền diệu pháp thánh nhân
Con xin tịnh ý nghiêm thân thực hành.
Từ quá khứ vô vàn diệu pháp
Ở tương lai vô lượng pháp mầu
Hiện tiền Phật pháp thâm sâu
Thuyền từ phương tiện bắc cầu độ sanh.
Pháp vi diệu cha lành khéo dạy
Lìa danh ngôn giác ngộ hiện tiền
Vượt thời gian chứng vô biên
Sát na đại ngộ hoát nhiên liễu tường.
Ðạo vô thượng đến rồi thấy rõ
Hướng thượng tâm thoát ngõ vọng trần
Trí nhân tự ngộ giả chân
Diệu thường tịnh lạc pháp ân nhiệm mầu.
Pháp là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y pháp bảo chánh chân
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên.
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Pháp bảo đức lành từ dung. (lạy)
LỄ TĂNG BẢO
Hoà hợp chúng Tăng già thanh tịnh
Ðức vô song tứ thánh sa môn
Thừa hành di giáo Thế Tôn
Ðời đời tương tục bốn phương phổ hoằng.
Từ quá khứ vô vàn Tăng chúng
Ở tương lai vô lượng Thánh hiền
Hiện tiền Tăng bảo phước điền
Con xin kính lễ gieo duyên Niết bàn.
Bậc diệu hạnh Thanh văn Thích tử
Bậc trực hạnh pháp lữ thiền gia
Bậc như lý hạnh Tăng già
Bậc chơn chánh hạnh dưới toà Thế Tôn.
Thành đạo quả bốn đôi tám chúng
Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm
Cung nghinh kính lễ một niềm
Thánh chúng vô thượng phước điền thế gian.
Tăng là nơi nương nhờ tối thượng
Cho chúng con vô lượng an lành
Qui y Tăng bảo tịnh thanh
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên.
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối
Những sở hành lầm lỗi vô minh
Từ thân khẩu ý khởi sanh
Ngưỡng mong Tăng bảo đức lành từ dung. (lạy)
THỈNH CHƯ THIÊN
Ðạo tràng thanh tịnh bồ đề
Mười phương thiên chúng hội về nghe kinh
Pháp mầu diệt tận vô minh
Pháp mầu cứu khổ sinh linh vạn loài.
Từ dục giới vân đài sáu cõi
Ðến thiên cung sắc giới hữu hình
Duyên xưa đã tạo nghiệp lành
Kết thành phúc quả thiện sanh đến giờ.
Ngự khắp chốn bến bờ đồng ruộng
Hoặc hư không châu quận thị phường
Non xanh rừng rậm đất bằng
Hoặc nơi quán cảnh xóm làng gần xa.
Xin đồng thỉnh Dạ xoa chư chúng
Càn-thát-bà, Long chủng nơi nơi
Miếu đền thành quách lâu đời
Sông hồ hoang đảo biển khơi trùng trùng.
Pháp vi diệu nghìn thân nan ngộ
Phước nhân thiên muôn thuở khó cầu
Ngày tàn tháng lụn qua mau
Ðắm say trần cảnh vùi đầu tử sinh.
Ðây là giờ chuyển kinh vô thượng
Ðây là giờ đọc tụng pháp âm
Lời vàng lý nghĩa cao thâm
Xin chư hiền giả lắng tâm thọ trì. (lạy)
KỆ KHAI KINH
Phật pháp cao siêu lý rộng sâu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu.
Con nay gặp được vâng trì tụng
Nguyện hiểu chân kinh nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Như vậy ta nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī, tại Jetavana, vườn Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc).
Lúc bấy giờ, Tôn giả Sāriputta gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo!” – “Thưa vâng, Hiền giả!” Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sāriputta. Tôn giả Sāriputta nói như sau:
Chư Hiền, chánh tri kiến, chánh tri kiến, được gọi là như vậy. Chư Hiền, cho đến như thế nào, một vị Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này?
Chúng ta từ xa đến để được hiểu ý nghĩa lời nói ấy từ Tôn giả Sāriputta. Thật lành thay, nếu Tôn giả Sāriputta giảng cho ý nghĩa lời nói ấy. Sau khi nghe Tôn giả Sāriputta, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
Chư Hiền, vậy hãy nghe, hãy khéo tác ý. Ta sẽ giảng. “Thưa vâng, Hiền giả!” Các Tỷ-kheo vâng đáp Tôn giả Sāriputta. Tôn giả Sāriputta nói như sau:
(TUỆ TRI VỀ BẤT THIỆN VÀ THIỆN)
Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri được bất thiện và tuệ tri được căn bản bất thiện, tuệ tri được thiện và tuệ tri được căn bản thiện, khi ấy, Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.
Chư Hiền, thế nào là bất thiện, thế nào là căn bản bất thiện, thế nào là thiện, thế nào là căn bản thiện?
– Sát sanh là bất thiện, lấy của không cho là bất thiện, tà hạnh trong các dục là bất thiện, nói láo là bất thiện, nói hai lưỡi là bất thiện, ác khẩu là bất thiện, nói phù phiếm là bất thiện, tham dục là bất thiện, sân là bất thiện, tà kiến là bất thiện. Như vậy gọi là bất thiện.
Và chư Hiền, thế nào là căn bản bất thiện?
– Tham là căn bản bất thiện, sân là căn bản bất thiện, si là căn bản bất thiện. Như vậy gọi là căn bản bất thiện.
Và này chư Hiền, thế nào là thiện?
– Từ bỏ sát sanh là thiện, từ bỏ lấy của không cho là thiện, từ bỏ tà hạnh trong các dục là thiện, từ bỏ nói láo là thiện, từ bỏ nói hai lưỡi là thiện, từ bỏ ác khẩu là thiện, từ bỏ nói phù phiếm là thiện, không tham dục là thiện, không sân là thiện, chánh tri kiến là thiện. Như vậy gọi là thiện.
Chư Hiền, thế nào là căn bản thiện?
– Không tham là căn bản thiện, không sân là căn bản thiện, không si là căn bản thiện. Như vậy gọi là căn bản thiện.
Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri bất thiện như vậy, tuệ tri căn bản bất thiện như vậy, tuệ tri thiện như vậy, tuệ tri căn bản thiện như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên, nhổ tận gốc kiến mạn tùy miên ‘Ta là’, đoạn trừ vô minh, khiến minh khởi lên, diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại, như vậy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu Pháp này.
(TUỆ TRI VỀ THỨC ĂN)
Lành thay, Hiền giả! Các Tỷ-kheo ấy sau khi hoan hỷ, tín thọ lời nói Tôn giả Sāriputta và hỏi thêm Tôn giả Sāriputta câu hỏi như sau:
Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này, Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này?
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thức ăn, tuệ tri Tập khởi của thức ăn, tuệ tri Đoạn diệt của thức ăn, và tuệ tri Con đường đưa đến đoạn diệt của thức ăn, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.
Chư Hiền, thế nào là thức ăn, thế nào là Tập khởi của thức ăn, thế nào là Đoạn diệt của thức ăn, thế nào là Con đường đưa đến đoạn diệt của thức ăn? – Có bốn loại thức ăn này, khiến các loài chúng sanh đã sanh được an trú hay các loài hữu tình sẽ sanh được hỗ trợ cho sanh. Thế nào là bốn? – đoàn thực, loại thô hay loại tế, xúc thực là thứ hai, tư niệm thực là thứ ba, thức thực là thứ tư. Từ tập khởi của ái, có tập khởi của thức ăn; từ đoạn diệt của ái, có đoạn diệt của thức ăn; và Thánh đạo tám chánh này là con đường đưa đến đoạn diệt của thức ăn, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thức ăn như vậy, tuệ tri Tập khởi của thức ăn như vậy, tuệ tri Đoạn diệt của thức ăn như vậy, tuệ tri Con đường đưa đến đoạn diệt của thức ăn như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên, nhổ tận gốc kiến mạn tùy miên ‘Ta là’, đoạn trừ vô minh, khiến minh khởi lên, diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại, như vậy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.
(TUỆ TRI VỀ BỐN THÁNH ĐẾ)
Lành thay, Hiền giả! Các Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời nói Tôn giả Sāriputta liền hỏi thêm Tôn giả Sāriputta câu hỏi như sau:
Hiền giả, có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này, Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu Pháp này?
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri Khổ, tuệ tri Tập khởi của khổ, tuệ tri Đoạn diệt của khổ, tuệ tri Con đường đưa đến đoạn diệt của khổ, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.
Chư Hiền, thế nào là Khổ, thế nào là Tập khởi của khổ, thế nào là Đoạn diệt của khổ, thế nào là Con đường đưa đến đoạn diệt của khổ? – Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi khổ ưu não là khổ, cầu không được là khổ, tóm lại năm thủ uẩn là khổ. Như vậy gọi là khổ.
Chư Hiền, thế nào là Tập khởi của khổ? – Chính là ái đưa đến tái sanh, cùng khởi hỷ dục và tham hướng đến tái sanh, cùng khởi hỷ dục và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, tức là Dục ái, Hữu ái, Phi hữu ái. Như vậy gọi là Tập khởi của khổ.
Chư Hiền, thế nào là Đoạn diệt của khổ? – Ðó là sự đoạn diệt, ly tham, không có dư tàn, sự quăng bỏ, sự từ bỏ, sự giải thoát, sự vô chấp khát ái ấy.
Chư Hiền, thế nào là Con đường đưa đến đoạn diệt của khổ? – Chính là Thánh đạo tám chánh này đưa đến khổ diệt, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri khổ như vậy, tuệ tri Tập khởi của khổ như vậy, tuệ tri Đoạn diệt của khổ như vậy, tuệ tri Con đường đưa đến đoạn diệt của khổ như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên … và thành tựu diệu Pháp này.
(TUỆ TRI VỀ GIÀ VÀ CHẾT)
Lành thay, Hiền giả! … Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này, Thánh đệ tử… thành tựu diệu pháp này?
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri già chết, tuệ tri Tập khởi của già chết, tuệ tri Đoạn diệt của già chết, tuệ tri Con đường đưa đến đoạn diệt của già chết, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến… và thành tựu diệu Pháp này.
Chư Hiền, thế nào là già chết, thế nào là Tập khởi của già chết, thế nào là Đoạn diệt của già chết, thế nào là Con đường đưa đến đoạn diệt của già chết? – Thuộc bất kỳ hữu tình giới nào, trong từng mỗi loại hữu tình, sự già cả, suy lão, rụng răng, tóc bạc da nhăn, tuổi thọ ngày một hao mòn, bại hoại các căn. Như vậy gọi là già. Chư Hiền, thế nào là chết? – Thuộc bất kỳ hữu tình giới nào trong từng mỗi loại hữu tình, sự mệnh một, từ trần, hủy hoại, hoại diệt, tử biệt, mệnh chung, hủy hoại các uẩn, vất bỏ hình hài. Như vậy gọi là chết.
Già như vậy và chết như vậy. Như vậy gọi là già chết. Từ sự tập khởi của sanh, có sự tập khởi của già chết; từ sự đoạn diệt của sanh, có sự đoạn diệt của già chết; và Thánh đạo tám chánh này là con đường đưa đến đoạn diệt của già chết, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri già chết như vậy, tuệ tri Tập khởi của già chết như vậy, tuệ tri Đoạn diệt của già chết như vậy, tuệ tri Con đường đưa đến đoạn diệt của già chết như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên…, và thành tựu diệu Pháp này.
(TUỆ TRI VỀ SANH)
Lành thay, Hiền giả!… Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này, Thánh đệ tử… thành tựu diệu pháp này?
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri sanh, tuệ tri Tập khởi của sanh, tuệ tri Đoạn diệt của sanh, tuệ tri Con đường đưa đến đoạn diệt của sanh, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến… và thành tựu diệu pháp này.
Chư Hiền, thế nào là sanh, thế nào là Tập khởi của sanh, thế nào là Đoạn diệt của sanh, thế nào là Con đường đưa đến đoạn diệt của sanh? – Thuộc bất kỳ hữu tình giới nào trong từng mỗi loại hữu tình, sự sanh, hiện khởi, xuất hiện, hiện diện, hiện hành các uẩn, tụ đắc các xứ. Như vậy gọi là sanh. Từ sự tập khởi của hữu, có sự tập khởi của sanh; từ sự đoạn diệt của hữu, có sự đoạn diệt của sanh; và Thánh đạo tám chánh này là con đường đưa đến đoạn diệt của sanh, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri được sanh như vậy, tuệ tri được tập khởi của sanh như vậy, tuệ tri được đoạn diệt của sanh như vậy, tuệ tri được Con đường đưa đến đoạn diệt của sanh như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên… và thành tựu diệu pháp này.
(TUỆ TRI VỀ HỮU)
Lành thay, Hiền giả! … Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này, Thánh đệ tử… thành tựu diệu pháp này?
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri hữu, tuệ tri Tập khởi của hữu, tuệ tri Đoạn diệt của hữu, tuệ tri Con đường đưa đến đoạn diệt của hữu, khi ấy vị Thánh đệ tử có chánh tri kiến… và thành tựu diệu Pháp này.
Chư Hiền, thế nào là hữu, thế nào là Tập khởi của hữu, thế nào là Đoạn diệt của hữu, thế nào là Con Đường đưa đến đoạn diệt của hữu? – Chư Hiền, có ba hữu này: Dục hữu, Sắc hữu, Vô sắc hữu. Từ tập khởi của thủ, có tập khởi của hữu; từ đoạn diệt của thủ, có đoạn diệt của hữu; và Thánh đạo tám chánh này là con đường đưa đến đoạn diệt của hữu, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri hữu như vậy, tuệ tri Tập khởi của hữu như vậy, tuệ tri Đoạn diệt của hữu như vậy, tuệ tri Con Đường đưa đến đoạn diệt của hữu như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên… và thành tựu diệu pháp này.
(TUỆ TRI VỀ THỦ)
Lành thay, Hiền giả! … Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này, Thánh đệ tử… thành tựu diệu pháp này?
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thủ, tuệ tri Tập khởi của Thủ, tuệ tri Đoạn diệt của thủ, tuệ tri Con Đường đưa đến đoạn diệt của thủ, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến… và thành tựu diệu pháp này.
Chư Hiền, thế nào là thủ, thế nào là Tập khởi của thủ, thế nào là Đoạn diệt của thủ, thế nào là Con đường đưa đến đoạn diệt của thủ? – Chư Hiền, có bốn thủ này: dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ. Từ tập khởi của ái, có tập khởi của thủ; từ đoạn diệt của ái, có đoạn diệt của thủ; và Thánh đạo tám chánh này là con đường đưa đến đoạn diệt của Thủ, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thủ như vậy, tuệ tri Tập khởi của thủ như vậy, tuệ tri Đoạn diệt của thủ như vậy, tuệ tri Con đường đưa đến đoạn diệt của thủ như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên… và thành tựu diệu pháp này.
(TUỆ TRI VỀ ÁI)
Lành thay, Hiền giả! … Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này, Thánh đệ tử… thành tựu diệu pháp này?
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri ái, tuệ tri Tập khởi của ái, tuệ tri ‘Đoạn diệt của ái, tuệ tri ‘Con Đường đưa đến đoạn diệt của ái, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến… và thành tựu diệu Pháp này.
Chư Hiền, thế nào là ái, thế nào là Tập khởi của ái, thế nào là Đoạn diệt của ái, thế nào là Con đường đưa đến đoạn diệt của ái?
– Chư Hiền, có sáu loại ái này: sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái. Từ tập khởi của Thọ, có tập khởi của ái; từ đoạn diệt của Thọ, có đoạn diệt của ái; và Thánh đạo tám chánh này là con đường đưa đến đoạn diệt của ái, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri ái như vậy, tuệ tri Tập khởi của ái như vậy, tuệ tri Đoạn diệt của ái như vậy, tuệ tri Con đường đưa đến đoạn diệt của ái như vậy, khi ấy, vị ấy, đoạn trừ tất cả tham tùy miên… và thành tựu diệu pháp này.
(TUỆ TRI VỀ THỌ)
Lành thay, Hiền giả! … Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này, Thánh đệ tử… thành tựu diệu pháp này?
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thọ, tuệ tri Tập khởi của thọ, tuệ tri Đoạn diệt của thọ, tuệ tri Con Đường đưa đến đoạn diệt của thọ, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến… và thành tựu diệu Pháp này.
Chư Hiền, thế nào là thọ, thế nào là Tập khởi của thọ, thế nào là Đoạn diệt của thọ, thế nào là Con đường đưa đến đoạn diệt của thọ? – Chư Hiền, có sáu loại thọ này: thọ do nhãn xúc sanh, thọ do nhĩ xúc sanh, thọ do tỷ xúc sanh, thọ do thiệt xúc sanh, thọ do thân xúc sanh, thọ do ý xúc sanh. Từ tập khởi của xúc, có tập khởi của thọ; từ đoạn diệt của xúc, có đoạn diệt của thọ; và Thánh đạo tám chánh này là con đường đưa đến đoạn diệt của thọ, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thọ như vậy, tuệ tri Tập khởi của thọ như vậy, tuệ tri Đoạn diệt của thọ như vậy, tuệ tri Con đường đưa đến đoạn diệt của thọ như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên… và thành tựu diệu pháp này.
(TUỆ TRI VỀ XÚC)
Lành thay, Hiền giả! … Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này, Thánh đệ tử… thành tựu diệu pháp này?
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri xúc, tuệ tri Tập khởi của xúc, tuệ tri Đoạn diệt của xúc, tuệ tri Con đường đưa đến đoạn diệt của xúc, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến… và thành tựu diệu pháp này.
Chư Hiền, thế nào là xúc, thế nào là Tập khởi của xúc, thế nào là Đoạn diệt của xúc, thế nào là Con đường đưa đến đoạn diệt của xúc? – Chư Hiền, có sáu loại xúc này: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc. Từ tập khởi của sáu nhập, có tập khởi của xúc; từ đoạn diệt của sáu nhập, có đoạn diệt của xúc; và Thánh đạo tám chánh này là con đường đưa đến đoạn diệt của xúc, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri xúc như vậy, tuệ tri Tập khởi của xúc như vậy, tuệ tri Đoạn diệt của xúc như vậy, tuệ tri Con đường đưa đến đoạn diệt của xúc như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên… và thành tựu diệu Pháp này.
(TUỆ TRI VỀ SÁU NHẬP)
Lành thay, Hiền giả! … Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này, Thánh đệ tử… thành tựu diệu pháp này?
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri sáu nhập, tuệ tri Tập khởi của sáu nhập, tuệ tri Đoạn diệt của sáu nhập, tuệ tri Con đường đưa đến đoạn diệt của sáu nhập, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến… và thành tựu diệu pháp này.
Chư Hiền, thế nào là sáu nhập, thế nào là Tập khởi của sáu nhập, thế nào là Đoạn diệt của Sáu nhập’, thế nào là Con đường đưa đến đoạn diệt của sáu nhập? – Chư Hiền, có sáu nhập này: nhãn nhập, nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, ý nhập. Từ tập khởi của danh-sắc có tập khởi của sáu nhập; từ đoạn diệt của danh-sắc có đoạn diệt của sáu nhập; và Thánh đạo tám chánh này là con đường đưa đến đoạn diệt của sáu nhập, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Chư Hiền, khi nào vị Thánh đệ tử tuệ tri sáu nhập như vậy, tuệ tri Tập khởi của sáu nhập như vậy, tuệ tri Đoạn diệt của sáu nhập như vậy, tuệ tri Con Đường đưa đến đoạn diệt của sáu nhập như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên… và thành tựu diệu pháp này.
(TUỆ TRI VỀ DANH SẮC)
Lành thay, Hiền giả! … Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này, Thánh đệ tử… thành tựu diệu Pháp này?
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri danh-sắc, tuệ tri Tập khởi của danh-sắc, tuệ tri ‘Đoạn diệt của danh-sắc, tuệ tri Con Đường đưa đến đoạn diệt của danh-sắc, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến… và thành tựu diệu pháp này.
Chư Hiền, thế nào là danh-sắc, thế nào là Tập khởi của danh-sắc, thế nào là Đoạn diệt của danh-sắc, thế nào là Con Đường đưa đến đoạn diệt của danh-sắc? – Thọ, tưởng, tư, xúc, tác ý, như vậy gọi là danh’; bốn đại và sắc do bốn đại tạo thành, như vậy gọi là sắc. Đây là danh và đây là sắc, như vậy gọi là danh-sắc. Từ tập khởi của thức, có tập khởi của danh-sắc; từ đoạn diệt của thức, có đoạn diệt của danh-sắc; và Thánh đạo tám chánh này là con đường đưa đến đoạn diệt của danh-sắc, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri danh-sắc như vậy, tuệ tri Tập khởi của danh-sắc như vậy, tuệ tri Đoạn diệt của danh-sắc như vậy, tuệ tri Con đường đưa đến đoạn diệt của danh-sắc như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên… và thành tựu diệu pháp này.
(TUỆ TRI VỀ THỨC)
Lành thay, Hiền giả! … Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này, Thánh đệ tử… thành tựu diệu pháp này?
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri thức, tuệ tri Tập khởi của Thức’, tuệ tri Đoạn diệt của thức, tuệ tri ‘Con đường đưa đến đoạn diệt của thức, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến… và thành tựu diệu pháp này.
Chư Hiền, thế nào là thức, thế nào là Tập khởi của thức, thế nào là Đoạn diệt của Thức’, thế nào là Con đường đưa đến đoạn diệt của thức? – Chư Hiền, có sáu loại thức này: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Từ tập khởi của hành, có tập khởi của thức; từ đoạn diệt của hành có đoạn diệt của thức; và Thánh đạo tám chánh này là con đường đưa đến đoạn diệt của thức, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri ‘Thức’ như vậy, tuệ tri Tập khởi của thức như vậy, tuệ tri Đoạn diệt của thức như vậy, tuệ tri Con đường đưa đến đoạn diệt của thức như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên… và thành tựu diệu pháp này.
(TUỆ TRI VỀ HÀNH)
Lành thay, Hiền giả! … Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này, Thánh đệ tử… thành tựu diệu pháp này?
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri hành, tuệ tri Tập khởi của hành, tuệ tri Đoạn diệt của hành, tuệ tri Con đường đưa đến đoạn diệt của hành, khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến… và thành tựu diệu pháp này.
Chư Hiền, thế nào là hành, thế nào là Tập khởi của hành, thế nào là Đoạn diệt của hành, thế nào là Con đường đưa đến đoạn diệt của hành? – Chư Hiền, có ba loại hành này: thân hành, ngữ hành, tâm hành. Từ tập khởi của vô minh, có tập khởi của hành; từ đoạn diệt của vô minh, có đoạn diệt của hành; và Thánh đạo tám chánh này là con đường đưa đến đoạn diệt của hành, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri hành như vậy, tuệ tri Tập khởi của hành như vậy, tuệ tri Đoạn diệt của hành như vậy, tuệ tri Con đường đưa đến đoạn diệt của hành như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên… và thành tựu diệu pháp này.
(TUỆ TRI VỀ VÔ MINH)
Lành thay, Hiền giả! … Này Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này, Thánh đệ tử… thành tựu diệu pháp này?
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri vô minh, tuệ tri Tập khởi của vô minh, tuệ tri Đoạn diệt của vô minh, tuệ tri Con đường đưa đến đoạn diệt của vô minh, khi ấy, Thánh đệ tử có chánh tri kiến… và thành tựu diệu pháp này.
Chư Hiền, thế nào là vô minh, thế nào là Tập khởi của vô minh, thế nào là Đoạn diệt của vô minh, thế nào là Con đường đưa đến đoạn diệt của vô minh? – Sự không tuệ tri về Khổ, không tuệ tri về Khổ tập, không tuệ tri về Khổ diệt, không tuệ tri về Con đường đưa đến Khổ diệt. Như vậy gọi là vô minh. Từ tập khởi của lậu hoặc, có tập khởi của vô minh; từ đoạn diệt của lậu hoặc, có đoạn diệt của vô minh; và Thánh đạo tám chánh này là con đường đưa đến đoạn diệt của vô minh, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri vô minh như vậy, tuệ tri Tập khởi của vô minh như vậy, tuệ tri Đoạn diệt của vô minh như vậy, tuệ tri Con đường đưa đến đoạn diệt của vô minh như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên… và thành tựu diệu pháp này.
(TUỆ TRI VỀ LẬU HOẶC)
Lành thay, Hiền giả! Các vị Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời nói Tôn giả Sariputta, liền hỏi thêm Tôn giả Sariputta câu hỏi như sau:
Hiền giả, có thể có pháp môn nào khác, nhờ pháp môn này Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này?
Chư Hiền, có thể có. Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri lậu hoặc, tuệ tri Tập khởi của lậu hoặc, tuệ tri Đoạn diệt của lậu hoặc, tuệ tri Con đường đưa đến đoạn diệt của lậu hoặc; khi ấy Thánh đệ tử có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.
Chư Hiền, thế nào là lậu hoặc, thế nào là Tập khởi của lậu hoặc, thế nào là Đoạn diệt của lậu hoặc, thế nào là Con đường đưa đến đoạn diệt của lậu hoặc? – Có ba lậu hoặc này: dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Từ tập khởi của vô minh có tập khởi của lậu hoặc; từ đoạn diệt của vô minh có đoạn diệt của lậu hoặc; và Thánh đạo tám chánh này là con đường đưa đến đoạn diệt của lậu hoặc, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Chư Hiền, khi nào Thánh đệ tử tuệ tri lậu hoặc như vậy, tuệ tri Tập khởi của lậu hoặc như vậy, tuệ tri Đoạn diệt của lậu hoặc như vậy, tuệ tri Con đường đưa đến đoạn diệt của lậu hoặc như vậy, khi ấy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên, nhổ tận gốc kiến mạn tùy miên ‘Ta là’, đoạn trừ vô minh, khiến minh khởi lên, diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại. Như vậy, Thánh đệ tử có Chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này.
Tôn giả Sariputta thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời giảng của Tôn giả Sariputta.
(HẾT KINH CHÁNH TRI KIẾN)
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Như vậy ta nghe. Một thời Thế Tôn ở xứ Kuru, Kammassadhamma là đô thị của xứ Kuru.
Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo!” – “Thưa vâng, bạch Thế Tôn.” Các Tỷ-kheo vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết như sau:
Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm Xứ.
Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
(QUÁN THÂN)
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân?
– Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra. ‘Thở vô dài’, vị ấy tuệ tri ‘thở vô dài’; hay ‘thở ra dài’, vị ấy tuệ tri ‘thở ra dài’. ‘Thở vô ngắn’, vị ấy tuệ tri ‘thở vô ngắn’; hay ‘thở ra ngắn’, vị ấy tuệ tri ‘thở ra ngắn’. ‘Cảm giác toàn thân, ta sẽ thở vô’, vị ấy tập; ‘Cảm giác toàn thân, ta sẽ thở ra’, vị ấy tập. ‘An tịnh toàn thân, ta sẽ thở vô’, vị ấy tập; ‘An tịnh toàn thân, ta sẽ thở ra’, vị ấy tập.
Này các Tỷ-kheo, như người thợ quay hay học trò người thợ quay thiện xảo khi quay dài, tuệ tri ‘quay dài’, hay khi quay ngắn, tuệ tri ‘quay ngắn’. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi thở vô dài, tuệ tri: ‘thở vô dài’; hay thở ra dài, tuệ tri: ‘thở ra dài’. Khi thở vô ngắn, tuệ tri: ‘thở vô ngắn’; hay thở ra ngắn, tuệ tri: ‘thở ra ngắn’. Cảm giác toàn thân, ta sẽ thở vô, vị ấy tập; Cảm giác toàn thân, ta sẽ thở ra, vị ấy tập. An tịnh toàn thân, ta sẽ thở vô, vị ấy tập; An tịnh toàn thân, ta sẽ thở ra, vị ấy tập.
Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên thân, hay sống quán tánh diệt-tận trên thân, hay sống quán tánh sanh-diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi, tuệ tri ‘đi’; hay đứng, tuệ tri ‘đứng’; hay ngồi, tuệ tri ‘ngồi’; hay nằm, tuệ tri ‘nằm’. Thân thể được sử dụng như thế nào, vị ấy tuệ tri thân như thế ấy.
Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên thân, hay sống quán tánh diệt-tận trên thân, hay sống quán tánh sanh-diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỳ-kheo khi bước tới bước lui, biết rõ việc mình đang làm; khi ngó tới ngó lui, biết rõ việc mình đang làm; khi co tay, khi duỗi tay, biết rõ việc mình đang làm; khi mang áo tăng-già-lê, mang bát, mang y, biết rõ việc mình đang làm; khi ăn, uống, nhai, nếm, biết rõ việc mình đang làm; khi đại tiện, tiểu tiện, biết rõ việc mình đang làm; khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng, biết rõ việc mình đang làm.
Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên thân, hay sống quán tánh diệt-tận trên thân, hay sống quán tánh sanh-diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này: “Ðây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, niêm dịch, nước ở khớp xương, nước tiểu.”
Này các Tỷ-kheo, cũng như một bao đồ, hai đầu trống đựng đầy các loại hột như gạo, lúa, đậu xanh, đậu lớn, mè, gạo đã xay rồi. Một người có mắt, đổ các hột ấy ra và quán sát: “Ðây là hột gạo, đây là hột lúa, đây là đậu xanh, đây là đậu lớn, đây là mè, đây là hột lúa đã xay rồi.” Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo quán sát thân này dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này: “Ðây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, niêm dịch, nước ở khớp xương, nước tiểu.”
Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên thân, hay sống quán tánh diệt-tận trên thân, hay sống quán tánh sanh-diệt trên thân. ‘Có thân đây’, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này về vị trí các giới và sự sắp đặt các giới: “Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại.” Này các Tỷ-kheo, như một người đồ tể thiện xảo, hay đệ tử của một người đổ tể giết một con bò, ngồi cắt chia từng thân phần tại ngã tư đường. Cũng vậy, Tỷ-kheo quán sát thân này về vị trí các giới và sự sắp đặt các giới: “Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại.”
Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên thân, hay sống quán tánh diệt-tận trên thân, hay sống quán tánh sanh-diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa một ngày, hai ngày, ba ngày, thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen lại, nát thối ra. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy.”
Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên thân, hay sống quán tánh diệt-tận trên thân, hay sống quán tánh sanh-diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, bị các loài quạ ăn, bị các loài diều hâu ăn, bị các chim kên ăn, bị các loài chó ăn, bị các loài giả can ăn, bị các loài côn trùng ăn. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản chất là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy.”
Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên thân, hay sống quán tánh diệt-tận trên thân, hay sống quán tánh sanh-diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, với các bộ xương còn liên kết với nhau, còn dính thịt và máu, còn được các đường gân cột lại…; với các bộ xương còn liên kết với nhau, không còn dính thịt nhưng còn dính máu, còn được các đường gân cột lại…; với các bộ xương không còn dính thịt, dính máu, còn được các đường gân cột lại, chỉ còn có xương không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia. Ở đây là xương tay, ở đây là xương chân, ở đây là xương ống, ở đây là xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở đây là xương sống, ở đây là xương đầu. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy.”
Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên thân, hay sống quán tánh diệt-tận trên thân, hay sống quán tánh sanh-diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, chỉ còn toàn xương trắng màu vỏ ốc…, chỉ còn một đống xương lâu hơn ba năm…, chỉ còn là xương thối trở thành bột. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy.”
Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân, hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên thân, hay sống quán tánh diệt-tận trên thân, hay sống quán tánh sanh-diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
(QUÁN THỌ)
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ?
– Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo khi cảm giác lạc thọ, tuệ tri ‘cảm giác lạc thọ’; khi cảm giác khổ thọ, tuệ tri ‘cảm giác khổ thọ’; khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ, tuệ tri ‘cảm giác bất khổ bất lạc thọ’; khi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất, tuệ tri ‘cảm giác lạc thọ thuộc vật chất’; khi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất, tuệ tri ‘cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất’; khi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất, tuệ tri ‘cảm giác khổ thọ thuộc vật chất’; khi cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất, tuệ tri ‘cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất’; khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất, tuệ tri ‘cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất’; khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất, tuệ tri ‘cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất’.
Như vậy, vị ấy sống quán thọ trên các nội thọ, hay sống quán thọ trên các ngoại thọ, hay sống quán thọ trên các nội thọ, ngoại thọ. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các thọ, hay sống quán tánh diệt tận trên các thọ, hay sống quán tánh sanh diệt trên các thọ. “Có thọ đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ.
(QUÁN TÂM)
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm?
– Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo, với tâm có tham, tuệ tri ‘tâm có tham’; với tâm không tham, tuệ tri ‘tâm không tham’. Với tâm có sân, tuệ tri ‘tâm có sân’; với tâm không sân, tuệ tri ‘tâm không sân’. Với tâm có si, tuệ tri ‘tâm có si’; với tâm không si, tuệ tri ‘tâm không si’. Với tâm thâu nhiếp, tuệ tri ‘tâm thâu nhiếp’. Với tâm tán loạn, tuệ tri ‘tâm tán loạn’. Với tâm quảng đại, tuệ tri ‘tâm quảng đại’; với tâm không quảng đại, tuệ tri ‘tâm không quảng đại’. Với tâm hữu hạn, tuệ tri ‘tâm hữu hạn’. Với tâm vô thượng, tuệ tri ‘tâm vô thượng’. Với tâm có định, tuệ tri ‘tâm có định’; với tâm không định, tuệ tri ‘tâm không định’. Với tâm giải thoát, tuệ tri ‘tâm có giải thoát’; với tâm không giải thoát tuệ tri ‘tâm không giải thoát’.
Như vậy, vị ấy sống quán tâm trên nội tâm, hay sống quán tâm trên ngoại tâm, hay sống quán tâm trên nội tâm, ngoại tâm. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên tâm, hay sống quán tánh diệt-tận trên tâm, hay sống quán tánh sanh-diệt trên tâm. “Có tâm đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm.
(QUÁN PHÁP)
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp? – Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Năm triền cái.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Năm triền cái?
– Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nội tâm có ái dục, tuệ tri ‘nội tâm có ái dục’; hay nội tâm không có ái dục, tuệ tri ‘nội tâm không có ái dục’. Và với ái dục chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; hay với ái dục đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; hay với ái dục đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Nội tâm có sân hận, tuệ tri ‘nội tâm có sân hận’; hay nội tâm không có sân hận, tuệ tri ‘nội tâm không có sân hận’. Và với sân hận chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; hay với sân hận đã sanh, nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; hay với sân hận đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Nội tâm có hôn trầm thụy miên, tuệ tri ‘nội tâm có hôn trầm thụy miên’; hay nội tâm không có hôn trầm thụy miên, tuệ tri ‘nội tâm không có hôn trầm thụy miên’. Và với hôn trầm thụy miên chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; hay với hôn trầm thụy miên đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; hay với hôn trầm thụy miên đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Nội tâm có trạo hối, tuệ tri ‘nội tâm có trạo hối’; hay nội tâm không có trạo hối, tuệ tri ‘nội tâm không có trạo hối’. Và với trạo hối chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; với trạo hối đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; với trạo hối đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Nội tâm có nghi, tuệ tri ‘nội tâm có nghi’; hay nội tâm không có nghi, tuệ tri ‘nội tâm không có nghi’. Và với nghi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; hay với nghi đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; hay với nghi đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp, hay sống quán pháp trên các ngoại pháp, hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp, hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp, hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. “Có những pháp ở đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với ‘Năm triền cái’.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với ‘Năm thủ uẩn’.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với ‘Năm thủ uẩn’?
– Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo suy tư: “Ðây là sắc, đây là sắc tập, đây là sắc diệt”. “Ðây là thọ, đây là thọ tập, đây là thọ diệt”. “Ðây là tưởng, đây là tưởng tập, đây là tưởng diệt”. “Ðây là hành, đây là hành tập, đây là hành diệt”. “Ðây là thức, đây là thức tập, đây là thức diệt”.
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp, hay sống quán pháp trên các ngoại pháp, hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên các pháp, hay sống quán tánh diệt-tận trên các pháp, hay sống quán tánh sanh-diệt trên các pháp. “Có những pháp ở đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Năm thủ uẩn.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Sáu nội ngoại xứ.
Thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Sáu nội ngoại xứ?
– Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo tuệ tri ‘mắt’ và tuệ tri ‘các sắc’, do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Tỷ-kheo tuệ tri ‘tai’ và tuệ tri ‘các tiếng’… Tuệ tri ‘mũi’ và tuệ tri ‘các hương’… Tuệ tri ‘lưỡi’ và tuệ tri ‘các vị’… Tuệ tri ‘thân’ và tuệ tri các ‘xúc’… Tuệ tri ‘ý’ và tuệ tri ‘các pháp’, do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp, hay sống quán pháp trên các ngoại pháp, hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp, hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp, hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. ‘Có những pháp ở đây’, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Sáu nội ngoại xứ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi’.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi?
Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo nội tâm có Niệm giác chi, tuệ tri ‘nội tâm có Niệm giác chi’; hay nội tâm không có Niệm giác chi, tuệ tri ‘nội tâm không có niệm giác chi’. Và với Niệm giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; hay với Niệm giác chi đã sanh, nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy. Tỷ-kheo nội tâm có Trạch pháp giác chi…; nội tâm có Tinh tấn giác chi…; nội tâm có Hỷ giác chi…; nội tâm có Khinh an giác chi…; nội tâm có Định giác chi…; Tỷ-kheo nội tâm có Xả giác chi, tuệ tri ‘nội tâm có Xả giác chi’; hay nội tâm không có Xả giác chi, tuệ tri ‘nội tâm không có Xả giác chi’. Và với Xả giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; hay với Xả giác chi đã sanh nay được tu tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy.
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp, hay sống quán pháp trên các ngoại pháp, hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên các pháp, hay sống quán tánh diệt-tận trên các pháp, hay sống quán tánh sanh-diệt trên các pháp. “Có những pháp ở đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến Chánh trí, Chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị ấy sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh Đế.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh Đế?
– Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như thật tuệ tri: “Ðây là Khổ”; như thật tuệ tri: “Ðây là Khổ Tập”; như thật tuệ tri: “Ðây là Khổ Diệt”; như thật tuệ tri: “Ðây là Con đường đưa đến Khổ Diệt”.
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp, hay sống quán pháp trên các ngoại pháp, hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh-khởi trên các pháp, hay sống quán tánh diệt-tận trên các pháp, hay sống quán tánh sanh-diệt trên các pháp. “Có những pháp ở đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh Đế.
(KẾT LUẬN)
Này các Tỷ-kheo, vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: hoặc là chứng Chánh Trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất Hoàn.
Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến bảy năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này như vậy trong sáu năm, trong năm năm, trong bốn năm, trong ba năm, trong hai năm, trong một năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: hoặc là chứng Chánh Trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất Hoàn.
Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến một năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này trong bảy tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: hoặc là chứng Chánh Trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất Hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần gì bảy tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này trong sáu tháng, trong năm tháng, trong bốn tháng, trong ba tháng, trong hai tháng, trong một tháng, trong nửa tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: hoặc là chứng Chánh Trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất Hoàn.
Này các Tỷ-kheo, không cần gì nửa tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: hoặc là chứng Chánh Trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất Hoàn.
Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu Chánh Trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm Xứ.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
(HẾT KINH NIỆM XỨ)




